Đã bao lần 30 tháng 4 trôi qua, nhưng lần nào cũng vậy mỗi khi ngày này đến, thì lòng tôi lại thấy buồn man mác, day dứt, như bị ám ảnh đủ điều và kỷ niệm của những ngày đen tối ấy lại sống dậy. Có thể nói nỗi buồn này không phải chỉ ở riêng tôi, mà còn ở nhiều người khác nữa. Mặc dù trang sử đen đã đóng lại, khép kín và đã lùi xa vào dĩ vãng có đến cả bốn chục năm trời, nhưng khi mốc thời gian đó hàng năm trở lại, thì những hồi tưởng lại cứ hiện về. Nó như một ám ảnh của cơn bệnh trầm kha trong người, rất khó gột rửa khỏi tâm hồn; nên hôm nay tôi viết ra những dòng dưới đây, hy vọng may ra nó giải tỏa bớt những ám ảnh, làm nhẹ đi những trăn trở và tủi hận, cho những ám ảnh của đám mây đen này không còn trở về nữa!
Nhớ lại vào những ngày tàn cuộc chiến, ai cũng phải trải qua những khó khăn của mình, mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, do vậy tình huống cũng khác nhau.
Lúc đó còn là một quân nhân, tôi cũng phải trải qua những khó khăn trong nhiệm vụ của mình. Những việc làm của tôi, ở vào những ngày phút cuối, được ghi ra ở đây chỉ phản ảnh một thực tế tôi đã va chạm phải. Nếu cái nhìn và nhận định của tôi có chủ quan, thì cũng chỉ thu hẹp trong khía cạnh hạn hẹp của điều tôi thấy, tôi nghe, chứ không rộng sang lãnh vực khác, mà tôi nghĩ rằng, chính ở những lãnh vực rộng lớn kia, nó mới ẩn chứa những yếu tố quyết định, cho sự thua trận nhục nhã của Việt Nam Cộng Hòa.
Trước hết tôi xin nói qua về bối cảnh đơn vị của mình trước khi tiếp tục câu chuyện.
Đơn vị tôi phục vụ là Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân, đồn trú trong căn cứ không quân Biên Hòa cùng với Sư Đoàn III Không Quân.
Hai đơn vị này chia sẻ một diện tích đồn trú rất lớn trên một diện tích khoảng 50 mẫu tây (?), bên trong có rất nhiều hangar, kho xưởng rộng lớn, bãi đậu phi cơ mênh mông và phi đạo ngang dọc. Quân số cơ hữu của hai đơn vị cộng lại, thêm cả một số nhỏ gia đình quân nhân sống bên trong, có lúc lên tới hai mươi ba ngàn người.
Sư Đoàn III Không Quân là một sư đoàn không quân chiến thuật lớn nhất quân chủng không quân, nhiệm vụ chính yếu là tác chiến để bảo vệ lãnh thổ vùng 3 và quân khu 3, trong đó có thủ đô Sàigon. Tổ chức của Sư Đoàn III Không Quân ngoài các phòng sở tham mưu, thì chủ yếu có những không đoàn chiến thuật, các liên đoàn tác chiến gồm các phi đoàn khu trục, phản lực F5.A và F5.E, trực thăng, quan sát và nhiều đơn vị yểm trợ dưới đất khác nữa. Sư Đoàn III Không Quân được đặt dưới quyền chỉ huy của chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính là tư lệnh sư đoàn.
Vì không phục vụ tại Sư Đoàn III KQ, tôi không biết nhiều về các hoạt động bên trong, nên tôi không dám bàn sâu vào các vấn đề chi tiết.
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ nói qua đến khả năng của đơn vị tôi phục vụ là Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật &Tiếp Vận /KQ mà thôi; vì nó liên can đến những việc làm của tôi và cho tôi một cái nhìn xác thực về những diễn biến vào giờ chót, phản ảnh lên cái quan hệ đồng minh Việt Mỹ và cái sự phản bội của người Mỹ đối với chúng ta là một đồng minh của họ.
Là một đơn vị Kỹ Thuật và Tiếp Vận lớn và duy nhất của Không Quân Việt Nam, nên chúng tôi được người Mỹ trang bị, huấn luyện cho rất đầy đủ và hiện đại.
Chúng tôi có trách nhiệm yểm trợ mọi nhu cầu cho 6 sư đoàn Không Quân và những đơn vị không quân biệt lập khác đồn trú trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Đảm nhiệm cả việc huấn luyện các chuyên viên kỹ thuật và chuyên viên điện toán cho các sư đoàn không quân này.
Chúng tôi còn là một đơn vị quản trị toàn thể tài sản không quân, tồn trữ những động cơ của các loại phi cơ, cất giữ những chiến đấu cơ mới được Mỹ viện trợ, tồn trữ hàng trăm ngàn hàng vật liệu các cơ phận sửa chữa phi cơ đủ loại, quân xa cơ giới đặc biệt và những quân dụng thượng đẳng và vật liệu cao giá khác, kể cả quân trang, quân dụng, và các tiện nghi cơ sở vật chất khác.
Ngoài những không đoàn, những trung tâm, các cơ sở tham mưu, các đơn vị trực thuộc yểm trợ cho hoạt động đơn vị, chúng tôi có một số đơn vị nổi bật là: một trung tâm Điện Toán Tiếp Vận Không Quân tầm cỡ lớn nhất quân đội, với các chuyên viên ưu tú và các kỹ sư IBM Mỹ làm việc 24/24; một Trung Tâm Quy Chuẩn, chuyên sửa chữa và điều chỉnh độ chính xác cho các phi kế, phi cụ, đồng hồ, la bàn, địa bàn cho trong và ngoài không quân, nên trung tâm này được thủ tướng Khiêm nâng lên cấp quốc gia; một Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo, chuyên sửa chữa và làm mới lại những phi cơ hư hỏng hay bị tai nạn trở thành khả dụng, không đoàn này đã dự phần chế tạo thành công chiếc phi cơ PL-41 đầu tiên của không quân Việt Nam, được người Mỹ rất thán phục; có xưởng Chế Tạo Dưỡng Khí Lỏng, xưởng Truyền Lực Động Cơ, xưởng Kiểm Thử Rạn Nứt các động cơ v.v.. Đối với các phi cơ, các quân xa cơ giới và các quân dụng đặc biệt của không quân thì chúng tôi sửa chữa ở cấp cao, tức cấp công xưởng.
Một đơn vị to lớn như vậy, được trang bị máy móc tối tân, đắt tiền và được điện toán hóa việc điều hành cũng như quản trị, chuyên ngành nào cũng có nhiều cố vấn Mỹ làm việc chung, thì phải nói chúng tôi không khác gì một đơn vị của không quân Mỹ cả.
Phải kể thêm là chúng tôi đảm trách luôn cả việc điều hành chuyển vận về Không, Thủy và Bộ vận trong và ngoài nước nữa, nên có nhiều các vận tải cơ lên xuống tấp nập hàng ngày. Nếu những lúc nào có những cuộc chuyển quân chiến thuật lớn lao đi bốn vùng chiến thuật, thì hoạt động còn rầm rộ hơn nữa.
Về đội ngũ chỉ huy thì có khoảng 430 sĩ quan các cấp, một số tốt nghiệp đại học, một số từ trường kỹ sư Phú Thọ về, hầu hết các sĩ quan còn lại đều tốt nghiệp chuyên môn tại các quân trường ở Mỹ và Pháp. Các hạ sĩ quan và binh sĩ chuyên ngành cũng vậy, họ đều là các chuyên viên giỏi, đa số cũng được theo học các khóa huấn luyện tại Mỹ và Pháp về. Vị sĩ quan tham mưu trưởng là đại tá Nguyễn Dương, có thể được coi là một nhà khoa học, vì ông tốt nghiệp ngành quỹ đạo không gian tại Mỹ. Ông vừa là tham mưu trưởng đơn vị, vừa là giám đốc cho một chương trình vệ tinh không gian của Mỹ tại Đông Nam Á, gọi tắt là E.R.S.T., vệ tinh này có nhiệm vụ bay quanh trái đất để dò tìm những tài nguyên và khoáng sản trong lòng đất. Ông còn kiêm nhiệm thêm chức cố vấn cho bộ giao thông vận tải thời đó nữa.
Cả một đơn vị lớn đó, với trên dưới tám, chín ngàn quân số, được đặt dưới quyền chỉ huy của chuẩn tướng Từ Văn Bê, một vị sĩ quan tốt nghiệp đại học, có kiến thức rộng, có đầu óc tổ chức khoa học, kinh nghiệm và trong sạch.
Tôi phải dài dòng về đơn vị mình, không phải là muốn mài bóng ai, mà chỉ muốn người đọc thấy rằng, chỉ với một đơn vị nhỏ bé trong quân đội như thế, cũng đã có một tiềm năng rất đáng kể trong công cuộc chiến đấu chống kẻ thù cộng sản. Trong khi đó thì Việt Nam Cộng Hòa có biết bao nhiêu đại đơn vị tại 4 quân đoàn, các sư đoàn tổng trừ bị ưu tú, thiện chiến như Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Biệt Cách Dù các quân binh chủng Hải, Lục, Không Quân và rất nhiều đơn vị lớn nhỏ khác, đầy chiến tích oai hùng. Một quân đội có trên một triệu quân, với không quân đứng hàng thứ tư trên thế giới (giờ chót sau khi đã bỏ vùng 1 và vùng 2 rồi, không quân tái phối trí lại các phi đoàn, thì còn lại được khoảng 1,067 phi cơ các loại, trong đó có khoảng 20 phi đoàn khu trục), cùng các đơn vị đơn vị tinh nhuệ, được huấn luyện tốt, trang bị tối tân, lòng dũng cảm có thừa, thì cớ gì mình lại thua một đạo quân tầm thường về mọi mặt, vừa nghèo đói vừa dốt nát, thanh niên đói ăn tới độ phải vào lính mới được cho ăn no bụng hơn đời sống ở xã hội bên ngoài.
Nếu nói về một trận đánh giữa một tiểu đoàn bộ binh này và một tiểu đoàn bộ binh khác, có chỗ ẩn núp đàng hoàng, cứ cho hai bên tha hồ mà đánh nhau, hết tháng này qua tháng khác cũng không thể tiêu diệt được nhau. An Lộc cũng vậy, bị vây hãm và pháo kích hàng mười ngàn quả đạn một ngày trong ròng rã 5 tháng trời mà còn đứng vững, cuối cùng đẩy lui được mấy sư đoàn cộng quân.
Vậy thì làm sao Việt Cộng có thể chiếm gọn miền Nam ngon lành, với trên một triệu quân, chỉ trong vòng 55 ngày đêm?
Rõ ràng chúng ta thấy đây là một bàn cờ chính trị, được ngoại bang sắp xếp cho quyền lợi của họ, mà bất hạnh thay Việt Nam Cộng Hòa lại là một nạn nhân, cũng chỉ vì chúng ta có một vị trí chiến lược quan trọng nhưng lại gặp phải một đồng minh bất lương, phản trắc, phản bội lại xương máu của bạn đồng minh mình!
Nói về tình hình chiến sự vào đầu tháng 2, 1975, thì miền Trung đã quá tồi tệ. Các cuộc rút quân, bỏ đất được trung ương dồn dập ban ra. Quân đội và dân chúng thi nhau tháo lui về hướng nam mà chưa thấy áp lực của cộng quân đâu cả. Tới khi bỏ chạy khỏi vùng 2 thì cuộc rút quân trở thành hỗn độn, hoảng loạn, đã gây một tổn thất lớn về nhân mạng trên tử lộ 13 như chúng ta đã biết. Cuối cùng thì tất cả vùng 1 và vùng 2 đều co cụm về vùng 3 và thủ đô Sàigon để tử thủ. Cuộc rút quân đã trả một giá rất đắt về những chết chóc của quân sĩ, của dân chúng, trên biển và trên bộ.
Tình hình lúc đó không gì có thể cứu chữa được nữa!
Tại đơn vị tôi mỗi buổi sáng phải họp để cập nhật tình hình quân sự. Tôi để ý thấy cố vấn Mỹ mỗi người đều có một bản đồ nhỏ Việt Nam, có vẽ ranh giới của 44 tỉnh Miền Nam Việt Nam. Lúc đó một số tỉnh thuộc vùng 1 và vùng 2 tôi đều thấy bị bôi đen cả. Điều này dễ hiểu vì 2 vùng này đã lọt vào tay VC rồi. Nhưng có một điều làm tôi chú ý là có những tỉnh gần vùng 3, như Phú Bổn, Lâm Đồng và Đà Lạt chẳng hạn, phía Mỹ đã bôi đen trước cả 5, 7 ngày, tức là Mỹ đã bỏ ngỏ và sẽ để những tỉnh này mất, trong khi đó radio và báo chí Việt Nam đều không hay biết để loan tin. Người dân cũng như các đơn vị quân đội vẫn còn ở đó như thường!
Thêm một yếu tố khác nữa là vào cuối tháng 3, văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ (Defense Attaché Office gọi tắt là DAO) qua các hãng thầu Mỹ, cúp ngang các khế ước làm việc với không quân Việt Nam. Các huấn luyện viên Mỹ đang huấn luyện dang dở cho không quân Việt Nam tại đơn vị tôi bỏ về Mỹ, kể cả 4 người cố vấn của ngành tôi. Họ không đến làm việc hàng ngày với tôi nữa, họ nói là phải tăng cường làm việc cho DAO tại Sàigòn, nhưng thực ra họ đã được rút về làm việc tại Thái Lan và đảo Guam. Vì mỗi khi tôi có việc phải điện thoại bàn soạn công việc với họ, thì đường dây điện thoại được tổng đài Mỹ chuyển sang Thái Lan hoặc Guam để chúng tôi nói chuyện, làm tôi vẫn tưởng họ đang ở tại Sàigòn!
Về phần cá nhân, chúng tôi đang phải đảm trách ngành chuyển vận, đặc biệt là không vận, thêm một số công việc nữa là huấn luyện và thiết lập các kế hoạch cho việc phòng thủ đơn vị Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận /KQ, nhưng việc không vận và phòng thủ là hai công việc chính và nặng nhọc.
Cho nên vào ngày 15 tháng 4 chúng tôi được chỉ định cùng cố vấn trưởng đơn vị, về Sàigòn để họp tại DAO. Mục đích của buổi họp này là để nghe phổ biến về một kế hoạch di tản chiến thuật (!).
Buổi họp có hai vấn đề được phổ biến là:
1. Không quân Việt Nam (tức đơn vị tôi, còn gọi là Air Logistics Command) chuẩn bị di chuyển tất cả phi cơ còn mới đang đựng trong thùng, như A37 và F5 A, cùng các động cơ phi cơ còn mới và tất cả các máy móc cao giá và các quân dụng thượng đẳng khác, đang tồn giữ tại căn cứ Không Quân Biên Hòa, ra khỏi Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ, ngày giờ sẽ cho biết sau.
2. Một cầu không vận bằng phi cơ C141 và C5A di tản khoảng 150,000 người ra khỏi Nam Việt Nam, do DAO điều động, sẽ khởi sự từ ngày 19 tháng 4 và dự trù chấm dứt ngày 5 tháng 5 / 1975.
Vì tính cách khẩn của tình hình, mọi việc phải sẵn sàng trong thời gian sớm nhất. Chúng tôi liền ra về và không được dự phần họp bàn về việc di tản người. Nhưng sau đó tôi được biết những thành phần được di tản là:
- Tất cả gia đình, nhân viên dân chính quốc phòng Mỹ và đồng minh, kể cả người Việt Nam làm việc ở các tòa đại sứ Mỹ và đồng minh.
- Tất cả nhân viên trong quân đội Mỹ, kể cả người Việt Nam đang làm việc cho Mỹ.
- Tất cả nhân viên hãng thầu Mỹ và đồng minh.
- Tất cả các vợ con người Mỹ và các nước đồng minh đã lập gia đình với người Việt Nam.
- Một số gia đình các giới chức cao cấp dân sự và quân đội Việt Nam cộng với những trường hợp đặc biệt khác như những phi công khu trục, các sĩ quan Việt Nam làm trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên và Bốn Bên v.v..
Những tháng trước đó chúng tôi biết người Mỹ đã làm những việc trên một cách đơn phương rồi, như: việc thâu hồi những đồ viện trợ có kỹ thuật cao về Mỹ từ các sư đoàn và căn cứ không quân Đà Nẵng, Nha Trang, Pleiku , Phù Cát, Phan Rang v.v... trước khi để mất các vùng này. Họ đặc biệt lấy đi những vật liệu và các cơ phận trang bị cho các đài P.O.P, là những đài hướng dẫn B52 và khu trục cơ của Không Quân Việt Nam, và đài D.A.R.T tức đài Trực Giác Tự Động, nằm trong hệ thống hàng rào điện tử Mac Namara, có nhiệm vụ tiếp nhận các tín hiệu từ các máy cảm nhận (sensors) được rải đầy trong rừng núi và dọc biên giới Lào Việt, để phát hiện sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt vào miền Nam Việt Nam, khi phát hiện có sự xâm nhập thì B52 hoặc phi pháo của không quân Việt Nam hoặc hải pháo từ đệ Thất Hạm Đội sẽ được yêu cầu đến để bắn tiêu diệt.
Còn về việc di tản kiều dân Mỹ, các nước đồng minh và một số người Việt Nam ra khỏi Nam Việt Nam, thì cũng được âm thầm làm từng ít một từ vài tháng trước, chứ không cần phải chờ đến giai đoạn cuối cùng này họ mới có kế hoạch di tản khẩn cấp. Sở dĩ phải họp khẩn cấp để cho mọi nơi thi hành đồng loạt, chẳng qua tình hình quân sự cũng như chính trị đã hết thuốc chữa và các đại đơn vị của cộng quân đã tiến sát đến Sàigòn rồi.
Vì vậy trên đường đi họp trở về đơn vị, lòng tôi cũng thấy bồi hồi, hoang mang và rất chao đảo. Tôi hỏi người cố vấn trưởng: “Tại sao Mỹ lại bỏ Việt Nam trong lúc này, có tính một giải pháp nào không?”.
Ông ta trả lời nguyên văn: “Chúng ta không thể chiến thắng một cuộc chiến đã mất!” (we can not win a lost war).
Tôi cay đắng, kìm lòng không được sự bất mãn, buột miệng chửi thầm trong miệng:
“Đ. mẹ con cháu đám Chú Sam này, thật là một lũ đểu”!
Xin nói thêm rằng chuẩn tướng Bê và một số nhỏ sĩ quan trẻ chúng tôi, không được lòng cố vấn Mỹ vì thái độ chống Mỹ (Anti-American). Cũng vì vậy khi chuẩn tướng Bê được Bộ Tư Lệnh Không Quân đề nghị thăng cấp thiếu tướng, được Tổng Thống Thiệu chấp thuận, nhưng khi đưa ra quốc hội chuẩn duyệt thì lại bị bác vì áp lực của Mỹ. Còn nhóm chúng tôi thì đám cố vấn đơn vị gọi là nhóm “The young turks” (những con gà tây trẻ).
Ngay lúc đó tôi ôn lại thật nhanh những sự việc làm mà các cố vấn Mỹ thường áp lực với chúng tôi.
- Họ kiểm soát và thúc giục mọi công tác phải hoàn thành kịp thời hạn, họ xoi bói vào phần chỉ huy của sĩ quan Việt Nam, họ cố tình chậm trễ viện trợ những cơ phận thay thế có tính cách thượng khẩn, họ giới hạn việc tiêu thụ nhiên liệu và bom đạn. Xăng dầu cấp cho phi cơ bị cắt giảm hẳn một nửa. Các phi vụ hành quân thì bom đạn chỉ được trang bị 1/4, mỗi khi hành quân về phi công phải báo cáo chi tiết số bom đạn đã sử dụng.
- Các phi cơ khu trục loại AD5 và AD6 thì bị đưa vào kế hoạch “đình động” tức frozen (xịt foam chung quanh tàu, tồn trữ ngoài trời cho khỏi hư, không cho hoạt động nữa) và thay thế bằng các phản lực cơ A37 và F5A, mà người Mỹ gọi là toy aircraft (tàu bay đồ chơi cho trẻ con), loại phản lực này chỉ được cái bay nhanh, nhưng tầm hoạt động và hỏa lực rất thua AD5 và AD6 là những loại chiến đấu cơ rất thích hợp cho chiến trường Việt Nam, cũng làm cho Việt Cộng rất khiếp sợ.
- Vấn đề trao trả tù binh giữa Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt cũng vậy. Họ dùng mọi áp lực buộc chúng ta thi hành trong sự thất thế, lép vế, nhưng lại nhượng bộ cho Bắc Việt để chúng luôn ở thế thượng phong.
Tôi xin kể lại trong một lần trao trả 1,000 tù binh cho Bắc Việt. Những tù binh này được chuyển về Biên Hòa từ nhiều nơi. Vì là buổi trao trả lần đầu nên được diễn ra long trọng trong phi trường Biên Hòa. Có đầy đủ quan chức cao cấp các nước và đại diện Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế, gồm 4 nước là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Nam Dương và Canada, có cả các phóng viên báo chí, truyền thanh truyền hình của các nước cộng sản và quốc gia đến dự. Trong lúc không quân đã sẵn sàng 4, 5 phi cơ C130 chờ sẵn ở bãi đậu gần khán đài để đưa tù binh trao trả, thì các quan khách tham dự chờ dài cổ ra mà tù binh Việt Cộng tại trại giam Tân Hiệp Biên Hòa làm reo, nhất định không chịu ra phi trường. Phái đoàn ủy hội kiểm soát bốn bên phải đến tận trại giam thuyết phục.
Đám tù binh này nói rằng, chúng không phải là tù binh Bắc Việt, mà là các nhà trí thức miền Nam, các sinh viên học sinh và các sư sãi yêu nước chống đối lại chính quyền, nên bị chính quyền giam giữ tù đầy. Bây giờ chúng không đi đâu cả. Cuộc làm reo này kéo dài cả giờ cho đến khi có đại diện Bắc Việt đến thì họ mới chịu đi. Trước khi đi, họ đưa ra yêu sách là phải tìm cho họ 15 bộ đồ nhà tu của các sư sãi để họ mặc, một số gậy để họ chống. Khi đạt được những yêu sách này, họ không chịu lên xe mà đi bộ nghênh ngang trên đường, trong những bộ đồ tu hành trông rất lố bịch. Trong đám này tôi có nhận ra vài sinh viên chống đối như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hữu Bôi, Nguyễn Xuân Lan v.v...
Còn khi vào tới phi trường lúc đi qua trước mặt báo chí, truyền thanh truyền hình và quan khách, họ vờ vịt đi khập khễnh, cõng nhau đỡ nhau để đi, quấn khăn che mặt như đang bị bệnh hoạn và giả bộ co chân giựt tay như bị động kinh! Họ còn phản đối rằng phi cơ chở họ không có ghế ngồi, họ không chịu ngồi trên sàn.
Kế tiếp họ yêu sách thêm là phải cung cấp bữa ăn trưa. Chúng tôi phải đi ra Biên Hòa mua nhiều cần xế bánh mì, chuối nải và kẹo đậu phộng về phân phát cho họ, nhưng họ lại dặn nhau không ăn! Khi các phái đoàn còn đang bận thuyết phục để họ chịu lên tàu bay, thì một cơn mưa lớn ập xuống, nước mưa lênh láng ngập tới mắt cá chân. Họ ra lệnh cho nhau đồng loạt vứt tất cả đồ ăn vừa được phân phối xuống đất trước khi lên tàu. Nước mưa thấm vào bánh mì và kẹo đậu phộng chương phình lên, nổi ngổn ngang trên mặt đất! Những thái độ và hành động mất dạy đó, tất cả các quan khách, báo chí và các đại diện ủy hội kiểm soát đều thấy cả.
Về địa điểm trao trả thì họ chọn phi trường Lộc Ninh.
Đây là một phi trường nhỏ, đường băng đáp được lót bằng các vỉ sắt PSP. Trước đây không quân chỉ ghé đáp những loại phi cơ nhỏ để liên lạc, chuyên chở hay tiếp tế cho tỉnh lỵ này. Nhưng sau khi ký kết hiệp định thì nó thuộc về Việt Cộng và Bắc Việt tuyên bố đây là thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trước khi phi cơ đáp xuống phi trường, chúng tôi thấy cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cờ đỏ sao vàng cắm la liệt. Vài chiếc xe tăng PT76 và T54 hư hỏng được họ sơn phết lại mới, ngụy trang bằng lá cây, có cắm cờ bên trên, đậu đó đây quanh phi trường. Ý họ muốn che mắt các phái đoàn ngoại quốc rằng nơi đây thực sự là thủ đô của họ từ lâu rồi.
Khi cửa máy bay vừa mở ra thì tù binh chạy ùa ra, la hét, mừng rỡ, ôm nhau cười cợt và người nào người ấy khỏe như vâm chứ đâu có bệnh hoạn gì như chúng đã đóng kịch. Lúc đó tên tù binh trưởng toán, liền trở mặt với các đại diện Việt Nam trong ủy ban trao trả và các nhân viên phi hành đoàn rằng:
- “Tất cả các anh phải đứng trong vòng vẽ tôi đang vẽ trên mặt đất đây. Không được ra khỏi vòng vẽ này, ai bước mà ra, chúng tôi không bảo đảm sinh mạng “!
Dĩ nhiên là phía bên Việt Nam Cộng Hòa cũng đâu để họ lấn lướt, tỏ thái độ cứng rắn và cương quyết, nhất là đại úy nhà văn Phan Nhật Nam người có chân trong ủy ban trao trả. Cuối cùng bọn chúng phải nhượng bộ.
Còn khi họ trao trả tù binh của ta thì nhìn rất thảm hại và thương tâm. Người bịnh hoạn thì nằm la liệt trên cáng, trên võng, trên nền đất trong những căn nhà lá, máu mủ từ những vết thương và từ chỗ sâu quảng, và những mụn ghẻ lở bốc ra hôi thối. Người không bệnh hoạn thì đói khổ, quần áo rách rưới hôi hám, mắt người nào cũng lõm sâu xuống. Có người quá đói thì xin đồ ăn tạm, vì họ phải khiêng nhau đi bộ từ biên giới Cam Bốt mấy ngày đêm mới về tới địa điểm trao trả này.
Tất cả những hình ảnh và sự việc trên, đều được các phái đoàn trao trả chứng kiến, kể cả người Mỹ cũng vậy.
(Gần đây khi tài liệu chiến tranh Việt Nam được giải mật, ông Hoàng Đức Nhã, bí thư của Tổng Thống Thiệu, có viết một bài có đề tựa là “Có bạn như vậy, ai cần kẻ thù?”. Đọc xong tôi còn bất mãn hơn về thái độ bẩn thỉu, đáng khinh miệt của người Mỹ qua con người của Kissinger. Theo bài viết thì buổi sáng, trước khi rời Hà Nội đến Sàigòn để họp với TT Thiệu vào đầu tháng 10-1972, Kissinger đã tổ chức tiệc ăn mừng với cộng sản Bắc Việt, để mừng về những thỏa thuận đã đạt được trước với Bắc Việt và sẽ được ký kết tại Paris. Đến nỗi Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phải khóc lên vì quá sung sướng vì hiệp định này rất có lợi cho họ!
Thành thử khi gặp TT Thiệu trong những buổi họp, Kissinger ép TT Thiệu phải chấp nhận bản hiệp định được Mỹ và Bắc Việt soạn trước gồm 65 điểm, hoàn toàn có lợi cho Việt Cộng, như: Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một đối tác, phải thành lập Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải có đại diện MTGPMN tại miền Nam, phải ngưng bắn “da beo” và Tổng Thống Thiệu nên từ chức v.v... Đối với những áp lực này Tổng Thống Thiệu rất cương quyết và đảm lược, ông bác khước việc ký kết và cũng không gửi đại diện đi dự hội đàm Paris! Kissinger quá tức giận phải bỏ về Mỹ và tuyên bố rằng “đây là một thảm bại ngoại giao lớn nhất trong đời”, rồi còn nhắn lại với TT Thiệu, qua ông Hoàng Đức Nhã bằng lời đe dọa rằng “Tổng Thống của anh không nên làm thánh tử đạo”!
Nhưng chung cuộc thì lịch sử cho thấy TT Thiệu vẫn phải ký, Việt Nam Cộng Hòa vẫn phải cử đại diện đi họp, vì đã tin vào lời cam kết cuội của TT Nixon qua một lá thư riêng gửi cho mình. TT Nixon cam kết rằng Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, rằng Bắc Việt sẽ bị giội bom lại nếu họ không thi hành hiệp định một cách nghiêm chỉnh, và nhiều điều hứa hẹn khác nữa v.v...
Nhưng khi hiệp định được ký kết rồi thì Mỹ rút quân, sau đó cắt viện trợ Việt Nam Cộng Hòa và để trên 20 sư đoàn Bắc Việt hùng hổ tiến vào cưỡng chiếm miền Nam!!!).
Trở lại tình hình lúc bấy giờ, tôi thấy vận mệnh VNCH sắp đến hồi kết thúc, vì không còn làm cách nào khác hơn được nữa. Quốc hội Mỹ đã chính thức cắt viện trợ rồi, lãnh thổ thì bị mất vùng 1 và vùng 2, tinh thần quân sĩ chao đảo, đời sống người dân khắp nơi cực kỳ hoảng loạn, xáo trộn. Và giờ đây thì những kế hoạch di tản đã được đặt ra.
Nói về cầu không vận di tản vật liệu tại Biên Hòa, thì sau buổi họp được ít lâu, vào ngày 19 tháng 4 khi chúng tôi đang ngồi làm việc với áo giáp và nón sắt trên đầu, thì 1 trung tá Mỹ từ Thái Lan bay đến, gặp tôi để bàn chi tiết việc di tản theo như tinh thần buổi họp đã ấn định. Ông ta cho biết ngày 24 tháng 4 sẽ là ngày D. Không quân Mỹ sẽ bay đến Biên Hòa từ Utapao Thái Lan bằng các loại vận tải cơ C141 và C130, số phi vụ thực hiện cho cầu không vận là vào khoảng 100 phi vụ. Để tận dụng phi đạo và bãi đáp, phi cơ khi đáp xuống sẽ không đậu vào parking để lấy hàng, mà sẽ chạy chậm chậm trên taxiway để những xe chất sẵn vật liệu của không quân Việt Nam chạy theo, rồi đẩy thẳng những pallet hàng này vào phi cơ. Kỹ thuật chất hàng này đòi hỏi phải có chuyên viên giỏi, làm việc chuẩn xác và được bảo vệ an toàn, tránh được sức nóng của turbo phản lực thổi ra khi xe chạy đằng sau những phản lực cơ khổng lồ C141.
Ông ta nói sẽ có 1 toán tăng phái (augmentee team) gồm 87 thủy quân lục chiến Mỹ đến tăng cường cho không quân Việt Nam. Phần chúng tôi quân số lúc đó chỉ còn khoảng 7,8 chục quân nhân, cộng thêm gần 100 nhân viên của hãng thầu Mỹ và với 87 người trong toán tăng phái nữa, thì có khoảng 250 người. Cái khó nhất là chúng tôi không có đủ những xe K25 Loader loại lớn, được trang bị hệ thống bàn lăn trên sàn xe để đẩy những kiện hàng cho được dễ dàng. Nhất là loại xe này phải có khả năng vừa chạy vừa có thể điều chỉnh độ cao thấp, để khi tiếp cận phi cơ đang lăn bánh, những pallet hàng có thể đẩy thẳng từ xe vào sàn phi cơ cho được khít khao và chính xác. Vì những kiện vật liệu chở đi gồm khá nhiều động cơ lớn và các phi cơ F5A còn đóng trong các thùng gỗ, to cao và dài hơn chiều dài của một xe GMC.
Việc này đòi hỏi người lái xe cũng phải chuyên nghiệp và kinh nghiệm. Những khó khăn về xe K25 loader cũng đã được giải quyết bằng cách, trước ngày D hai ngày, thì có 3 vận tải cơ lớn C124, loại chuyên môn chuyên chở những vật cụ nặng và ngoại khổ, không vận mấy chiếc K25 loader từ Thai Lan sang.
Khi ngày D bắt đầu thì bầu trời Biên Hòa vần vũ những phi cơ trên trời như bươm bướm, tiếng động cơ gầm thét rền vang, hết chiếc này nối tiếp chiếc kia đáp xuống và bay lên. Đặc biệt là suốt trong khoảng thời gian có cuộc không vận này, thì tuyệt nhiên phi trường Biên Hòa không hề phải nhận một trái pháo kích nào của cộng quân.
Xin nói thêm là căn cứ Không Quân Biên Hòa từ nhiều tháng trước ngày 30 tháng 4, bị cộng quân pháo kích rất dữ dội. Hàng đêm chúng tôi nhận trung bình từ 100 đến 200 trái hỏa tiễn 122 ly, thiệt hại rất đáng kể về phi cơ và cơ sở vật chất. Đến độ, để phục hồi lại những hoạt động bình thường hàng ngày, đồng thời để che mắt các nhân viên các hãng thầu Mỹ và quân nhân không quân các cấp khi vào phi trường làm việc mỗi sáng, không biết được sự thiệt hại ở mức độ nào; chúng tôi phải yêu cầu hãng thầu RMK của Mỹ, mỗi buổi chiều trước khi nghỉ việc, phải trộn đá và xi măng trong các xe trộn hồ lớn của họ để sẵn, đêm xuống khi dứt một trận pháo kích nào, thì các xe này phải chạy ngay đến những con đường, những bãi đậu phi cơ hoặc nơi nào bị tàn phá, đổ những mẻ xi măng trộn sẵn này lấp đi những khoảng đất mới bị đào xới bởi hỏa tiễn.
Ngoài ra, chúng tôi còn phải tăng cường việc phòng thủ nội vi, để tránh tình trạng đặc công và nội tuyến xâm nhập. Vì đơn vị tôi chiếm một lãnh thổ về cơ sở, lớn hơn 2/3 diện tích so với Sư Đoàn III Không Quân, nên hệ thống phòng thủ nội bộ rất là khó khăn và phức tạp. Các vọng gác mỗi nơi phải thay đổi mật khẩu từng 2 giờ một, đâu đâu cũng phải tăng cường hàng rào kẽm gai, hệ thống ánh sáng trong ngoài đơn vị. Đó chỉ là phòng thủ chiều sâu. Còn phòng thủ chiều rộng là phải rải quân sĩ ra các tuyến phòng thủ sát vòng đai phi trường, trên các tuyến tiền trạm, để tăng cường cho các chi đội thiết giáp và tiểu toàn công vụ bộ binh đang bảo vệ vòng ngoài phi trường.
Hệ thống mìn claymore, hỏa châu được cài đặt dầy đặc trên 8, 9 lớp hàng rào kẽm gai và concertina chung quanh vòng đai. Việc canh gác hàng đêm trên 140 chòi gác chung quanh vòng đai phi trường cũng là một công tác lớn mà hai đơn vị cũng phải chung lo. Quân số hàng đêm phải sử dụng tới từ 600 đến 700 người. Việc tổ chức phòng thủ đơn vị trong và ngoài như vậy phải được đặt ưu tiên hàng đầu, để bảo vệ mọi tài sản không quân, mọi phi cơ chiến đấu được khả dụng, để tiềm năng chiến đấu hành quân diệt địch trên các chiến trường không sút giảm.
Cuộc không vận vật liệu ra khỏi Biên Hòa được chấm dứt tốt đẹp. Nhưng ngay sau đó phi trường lại bị pháo kích mãnh liệt lại như trước, điều này chứng tỏ Mỹ và Việt Cộng đã thỏa thuận riêng với nhau là Việt Cộng sẽ không pháo kích trong lúc có cầu không vận được thực hiện. Một điều cần nói thêm nữa là, mỗi khi phái đoàn đại diện Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế mà rời Biên Hòa về Sàigòn ngủ đêm, thì y chang đêm đó xẩy ra cuộc pháo kích vào phi trường! Bởi vậy chúng tôi phải theo dõi chặt chẽ mọi di động của phái đoàn này để kịp thời tăng cường trực thăng tuần tra trên không vào những đêm đó.
Sau ngày cầu không vận Biên Hòa xong, thì tình hình ngày một xấu thêm, tôi nghĩ tới việc phải lo cho gia đình mình. Tôi xin phép C/T Bê cho tôi được nghỉ vài ngày phép để đưa gia đình về Sàigòn. Ông thuận ngay, có lẽ ông am tường thời cuộc, nên dễ dãi cho thuộc cấp có thì giờ để lo chuyện riêng, nhưng ông dặn tôi phải thường xuyên điện thoại về đơn vị để lo đôn đốc mọi việc. Tôi đưa vợ con về Sàigon tá túc tại nhà người chị vợ để tìm cơ hội ra đi.
Tại Sàigòn tôi liên lạc với cố vấn ngành của tôi tại bộ tư lệnh không quân là ông Umberger và liên lạc với một trung tá hải quân Mỹ (navy commander) tên Dickward đang làm việc trong DAO mà chúng tôi quen nhau trong buổi họp di tản gần 2 tuần trước. Cả hai người này đều có thể giúp chúng tôi vào giờ chót. Dickward thì rất tích cực. Ông lo cho tôi một mẫu đơn di tản do tòa đại sứ Mỹ cấp sẵn, gọi là “Last Minute Evacuation” (Di tản vào giờ chót), trong đó có những câu như: “yêu cầu các phương tiện quân và dân sự Mỹ khi gặp những người có tên trong danh sách này, phải có nhiệm vụ giúp họ thoát ra khỏi Nam Việt Nam bằng mọi cách, nếu không họ sẽ bị VC trả thù..”. Tôi vững tin nên dù được nghỉ phép tôi vẫn làm việc với đơn vị mình hàng ngày qua điện thoại
Cơ quan DAO nằm trong khu quân sự, trên đường vào phi cảng Hàng Không Dân Sự trong Tân Sơn Nhất. Tôi và Dickward hàng ngày sau giờ làm việc, rủ nhau ra Sàigon ăn tối và để tránh bị pháo kích trong đêm ở Tân Sơn Nhất, chúng tôi mướn phòng tại Sàigon Hotel nằm sát thương xá Tax để ngủ đêm.
Vào lúc bận rộn và khẩn cấp như vậy, thì đứa con gái tôi lại bị sốt xuất huyết phải đưa vào bệnh viện nhi đồng gần Ngã Bẩy Sàigòn để điều trị và tiếp nước biển.
Vào khoảng ngày 20 tháng 4, tôi được một văn phòng nào đó dấu tên, tại bộ tư lệnh không quân, điện thoại bảo đem danh sách vợ con về nạp cho văn phòng tư lệnh không quân để được cứu xét di tản.
Việc di tản này phổ biến hạn chế vì chỉ dành cho các sĩ quan đang có chức vụ và từ cấp thiếu tá trở lên. Và hàng ngày cơ quan DAO gởi 2 sĩ quan không quân Mỹ sang bộ tư lệnh không quân lấy danh sách di tản được văn phòng này thiết lập mang sang DAO.
Bắt đầu khoảng 21 hoặc 22 tháng 4, thì một số gia đình các sĩ quan cao cấp hơn tôi được khởi sự cho đi trước, trong số này có cả các gia đình phi công khu trục và đặc biệt là gia đình các phi công F5.E , vì Mỹ muốn thâu hồi các loại chiến đấu cơ đắt tiền này nên cho các gia đình phi công đi trước, để giờ chót những phi công này rảnh tay bay thẳng phi cơ sang Thái Lan cho Mỹ thâu hồi lại.
Cần nói thêm một điều là khi các vận tải cơ C141 đến Tân Sơn Nhất để tiếp nhận người di tản, thì mọi thủ tục kiểm soát lên xuống tàu bay đều do người Mỹ làm, không có bất cứ cơ quan Việt Nam nào được tham dự cả. Ngay cả việc bảo vệ an ninh cho bãi đậu của C141, Mỹ cũng dùng lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ làm hàng rào bao quanh tàu bay không cho ai lại gần. Người di tản được chuyển từ những xe bus của tòa đại sứ Mỹ sang thẳng phi cơ mà không cần làm danh sách gì cả. Vậy mà ngày 5 tháng 4 vẫn xẩy ra một tại nạn thảm khốc cho 1 chiếc vận tải cơ khổng lồ C5A bị cài bom nổ trên không rớt xuống gần Biên Hòa, trên đó có 230 em bé mồ côi và 70 người Mỹ, thì bị chết hết 130 em và 40 nhân viên Mỹ cộng với 10 phi hành đoàn.
Tôi được Dickwark dẫn tôi vào phòng điều hành di tản của DAO một đôi lần. Tôi thấy hoạt động bên trong nhộn nhịp, khẩn cấp và rất ồn ào. Phòng hành quân được điều động bởi một số viên chức cao cấp dân cũng như quân sự DAO, như Tr/tướng Murphy, Th/tướng Mc.Cléon và vài vị tướng khác từ Thái Lan đến. Còn lại là các đại diện các cơ quan Mỹ và cơ quan đồng minh, đại diện các hãng thầu Mỹ, một số người Việt Nam làm cho Mỹ và vài đại diện quân đội Việt Nam. Một phóng đồ thành phố Sàigòn rất lớn treo trên tường, với vị trí các cao ốc cùng với 4, 5 hướng tiến quân của quân đội Bắc Việt hướng vào Sàigòn, mỗi lúc mỗi gần. Một hệ thống vô tuyến và điện thoại đỏ, được nối liền với Ngũ Giác Đài và Thái Lan. Người điều động chỉ cần vặn tần số vô tuyến là có thể nói chuyện với các phi công trên trời hoặc các hạm đội ngoài biển. Một màn ảnh nhỏ radar có thể theo dõi các vị trí phi cơ và vị trí các tầu ngoài khơi v.v...
Sau đây là một số những diễn biến tình hình theo thứ tự thời gian mà tôi còn nhớ:
- Kể từ 19/4 trở đi, các vận tải cơ khổng lồ C141, C5A kể cả C130 ào ạt đến phi trường Tân Sơn Nhất ngày và đêm để bốc người di tản.
- Ngày 21/4 TT Thiệu lên đài phát thanh Sàigòn nói chuyện với dân chúng lần chót trước khi từ chức. Toàn bộ bài nói chuyện này chỉ là chửi Mỹ và chửi sự bội phản của họ, sau đó ông đưa gia đình ra nước ngoài tị nạn!
- Ngày 22/4 nội các Việt Nam Cộng Hòa được trao cho phó tổng thống Trần Văn Hương.
- Ngày 28/4 Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao trách nhiệm cho Đại tướng Dương Văn Minh với sự đồng ý của lưỡng viện Quốc Hội.
- Chiều 28/4 phi công phản bội Nguyễn Thành Trung dẫn mấy chiếc A37 từ Phan Rang về đánh bom phi trường Tân Sơn Nhất gây một số thiệt hại vật chất.
Ngay sau trận đánh bom thì có hai, ba vận tải cơ C130 của không quân Việt Nam chở các yếu nhân trong chính phủ ra nước ngoài. Phi cơ cất cánh trong hỏa lực dầy đặc của cộng quân, phi cơ chao đảo tưởng phải bị lâm nạn.
- Cũng ngày 28 tháng 4 đơn vị tôi , Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân, có lệnh đốt hết cơ sở để rút về Sàigòn.
- Khoảng 9 giờ tối cùng ngày, các vận tải cơ khả dụng của không quân kể cả trực thăng được lệnh di tản các không quân và gia đình ra phi trường An Thới và Côn Sơn. Những loại phi cơ khả dụng khác bay về vùng 4.
- Khoảng 4 giờ sáng 29/4, Việt Cộng pháo kích dữ dội vào phi tường Tân Sơn Nhất và một số rơi vào DAO, đúng vào lúc này chuyến bay C141 cuối cùng di tản người cất cánh rời phi trường Tân Sơn Nhất. Các chuyến bay di tản chính thức ngưng lại và Cầu Không Vận chấm dứt ngay sau đó. Cuộc pháo kích còn kéo dài lác đác tới 8, 9 giờ sáng.
- 8 giờ 30 sáng 29/4, một chiếc AC/ C119 của không quân Việt Nam đang bay yểm trợ quân bạn trên bầu trời phi trường Tân Sơn Nhất thì bị hỏa lực phòng không quân đội Bắc Việt từ dưới bắn lên, phi cơ rớt và mọi người chứng kiến hình ảnh một xạ thủ phi hành phóng ra từ phi cơ rơi xuống đất.
- 9giờ 30 sáng 29/4, trong Bộ Tư Lệnh Không Quân còn diễn ra một buổi họp quan trọng của một số các tướng lãnh không quân và bộ binh từ 1 tới 3 sao. Ít phút sau thấy tướng Nguyễn Cao Kỳ bước ra trực thăng đậu gần đó để đi, nói là sẽ lên Dinh Độc Lập để gặp đại tướng Dương Văn Minh. Nhưng sau này được biết ông lên bộ Tổng Tham Mưu để đón vài vị tướng nào khác bay ra Nhà Bè đổ xăng sau đó trực chỉ Đệ Thất Hạm Đội!
- 10 giờ sáng 29/4, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu tuyên bố trên đài phát thanh Sàigòn yêu cầu tất cả người Mỹ phải rút ra khỏi Việt Nam trong thời hạn 24 giờ.
Liền sau khi có lời tuyên bố của ông Mẫu thì rất nhiều phi cơ trực thăng loại HU1B và Chinook Jolly Green được các phản lực cơ Phantom F4 bảo vệ, từ các hàng không mẫu hạm của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ ngoài hải phận quốc tế, ào ạt bay vào các địa điểm tập trung người di tản còn sót lại trong DAO và trên nóc của khoảng 28 cao ốc quanh Saigòn, để bốc người di tản ra các hạm đội. Các trực thăng Mỹ này chỉ được phép bay trong một hành lang với chiều rộng là 5 miles và chiều dài từ Sàigòn ra tới Vũng Tàu, sau đó ra tới biển mới được quẹo đâu thì quẹo. Đây cũng là một sự thỏa thuận trước với nhau giữa Mỹ và Bắc Việt!
- Cùng lúc đó người ta cũng thấy một số trực thăng của Không Quân Việt Nam, được các pilot cất giấu trước hoặc cướp giật được từ những phi trường khác, bay về đáp trên các cao ốc, trên sân cỏ , trên vệ đường để đón gia đình tháo chạy. Một số bị bắn rớt, một số hư máy phải nằm ở lại. Cánh quạt trực thăng còn tiếp tục quay phành phạch cho mãi tới vài ngày sau.
- 9 giờ sáng 30/4, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Đài phát thanh Sàigòn phát đi lời hiệu triệu của tướng Dương Văn Minh, yêu cầu các đơn vị quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải buông súng, giao nạp vũ khí cho cộng quân. Lồng trong lời hiệu triệu thỉnh thoảng đài phát thanh phát kèm bài hát “Nối vòng tay lớn“ của Trịnh Công Sơn.
- 11 giờ sáng ngày 30/4, chiếc xe tăng T54 đầu tiên của quân đội Bắc Việt ủi sập cổng sắt dinh Độc Lập, quân đội Bắc Việt vào bắt giữ toàn thể nội các chính phủ và quốc hội Việt Nam Cộng Hòa đang tập họp bên trong để chờ đại diện Bắc Việt vào bàn giao chính quyền.
Một đại tá quân đội Bắc Việt tuyên bố: “Các anh không có gì để bàn giao cả, chúng tôi đã chiếm Sàigòn và bắt giữ các anh”!
- 11giờ 30 sáng 30/4 lá cờ đỏ sao vàng được quân đội BV cắm trên nóc Dinh Độc Lập bay phấp phới và Việt Nam Cộng Hòa cáo chung!!!
Giờ phút long đong.
Khi biết rõ được tình hình qua buổi họp di tản 15/4, tôi điện thoại cho bạn tôi đang làm trong Sở Nghiên Cứu Tác Vụ của Tổng Tham Mưu, bảo bạn mình chuẩn bị, vào giờ chót có thể hai người sẽ tìm đường ra khỏi nước bằng ngả không quân, nhưng dặn dò là cả hai phải lo cho gia đình đi trước đã. Trong thời gian này hai đứa thường xuyên giữ liên lạc với nhau.
Vào khoảng ngày 25 tháng 4, bạn tôi điện thoại nhờ tôi đến nhà đưa 2 gia đình vào DAO để di tản. Một là gia đình bạn tôi gồm 2 cụ song thân, 2 mẹ con người chị, một bà giúp việc có tuổi; còn gia đình kia là của người Mỹ làm cho hãng thầu LSI, người Mỹ này bảo trợ cho gia đình bạn tôi.
Việc lọt được vào khu của DAO trong giờ phút đó rất là khó khăn và gay go, vì hai bên đường gần trạm kiểm soát cổng Nhà Kiếng để vào bên trong phi cảng dân sự, đang có vài ngàn người đứng bu quanh để chờ cơ hội lọt vào bên trong DAO. Cho nên tại đây có một lực lượng an ninh hỗn hợp trấn giữ. Lực lượng này gồm quân cảnh biệt khu thủ đô, quân cảnh không quân, an ninh không quân, cục an ninh quân đội và tổng nha cảnh sát.
Mục đích chính là họ phát hiện và bắt giữ những quân nhân đang tại ngũ, trà trộn vào gia đình trên các xe bus của tòa đại sứ Mỹ vào DAO, để đào ngũ ra nước ngoài.
Khi xe jeep của tôi có bạn tôi ngồi bên cạnh, dẫn xe sau có 2 gia đình, rẽ dòng người tiến vào khu vực nút chận của trạm kiểm soát thì bị chận lại. Tôi nói rằng tôi đang làm trong DAO, tôi cho cả tên và số điện thoại của trung tá Dickward để họ xác nhận, nhưng vẫn bị từ chối và bắt xe phải quay ra. Ngay lúc đó thì một sĩ quan quân cảnh không quân đến nói nhỏ với tôi rằng, cứ vòng xe trở ra để cho những người dân đang đứng quanh đó không để ý, rồi lái xe quay trở lại để vào; khi họ thấy xe tôi đến gần thì họ sẽ kéo những con ngựa sắt trên mặt đường sang một bên, cho xe tôi chạy thẳng vào bên trong. Tôi làm theo lời chỉ dẫn quay xe trở ra, chạy một vòng lớn rồi trở lại trạm, thì được quân cảnh kéo những con ngựa sắt ra để xe tôi lọt vào bên trong. Chúng tôi gật đầu cám ơn họ. Nhưng khi xe chạy được một quãng, thì nhìn kính chiếu hậu xe tôi thấy mấy xe Honda và Vespa đuổi theo. Đâm ra họ chạy theo xe để xin tiền trà nước. Tôi bảo người bạn cho họ. Bạn tôi rút túi còn đâu được bốn mươi mốt ngàn đồng, chia hết cho họ. Thật ra đây cũng là sự công bằng.
Và đêm hôm đó gia đình bạn tôi và gia đình người Mỹ kia rời Việt Nam.
Đêm ngày 28, không quân được lệnh chở các gia đình không quân di tản ra Côn Sơn, tôi không đi vì nghĩ rằng vẫn có thể đi theo ngả DAO được, nhất là con tôi còn đang nằm trong bệnh viện Nhi Đồng tôi không vào đón kịp.
Cho tới 4 giờ sáng hôm sau thì phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích dữ dội. Đợi cho ngưng pháo kích, tôi và Dickward mới từ Sàigòn chạy vào DAO, lúc ấy khoảng 8 giờ sáng. Dickward bảo tôi về đưa gia đình vào sẵn trong DAO. Tôi chạy về nhà đón gia đình, tạt qua bệnh viện Nhi Đồng đón đứa con.
Tôi lái xe giữa dòng người xuôi ngược, đông đúc, chật chội, nhích xe từng thước một, hướng về phía DAO trong Tân Sơn Nhất, lúc này thì nghe radio thấy tiếng ông Vũ Văn Mẫu ra lệnh cho người Mỹ phải rút ra khỏi VN trong vòng 24 giờ!
Lòng tôi nao nao, bấn loạn từng hồi, chỉ mong sao xe chạy được đến DAO sớm phút nào hay phút ấy.
Tại một ngã tư đường nào đó trong lúc xe bị kẹt, tôi còn nghe thấy tiếng hát vang ra từ một quán càfé, với lời rên rỉ của những kẻ thất tình, trong lúc nước sắp mất, nhà sắp tan:
“Tình yêu như trái phá, con tim tật nguyền tình đi âm thầm, nghìn trùng như vết thương!!!...”.
Khi xe tôi chạy được vào gần DAO thì tôi đã thấy tại các vọng gác bên trong hàng rào lưới B40, có rất nhiều lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ với nón sắt, áo giáp đứng gác tại cổng ra vào. Các cuồng kẽm gai concertina được kéo ngang chắn các lối vào và lối ra. Họ không cho ai ra vào DAO nữa, kể cả người Mỹ. Có những sĩ quan không quân Mỹ đứng ra can thiệp cho một số người vào nhưng họ không tuân lệnh vì họ vừa từ Đệ Thất Hạm Đội bay vào, họ không nghe lệnh ai cả. Nhiều người chen lại gần, đưa giấy tờ đủ loại, họ không tiếp và đứng trên vọng gác bắn cầy xuống mặt đường để không cho ai lại gần cả! Tất cả các cửa vào DAO đều bị khóa kín!
Ngay lúc đó thì một chiếc trực thăng của không quân Việt Nam trúng phòng không, đáp vội xuống trên lề đường lối vào phi cảng dân sự, cầy một đường trên mặt đất, lật nghiêng làm bụi cát tung bay mịt mù! Mọi người bỏ chạy tán loạn. Tôi tìm cách điện thoại được với Dickward. Dickward từ trong DAO chạy ra gần vọng gác, nói năng gì với mấy Thủy quân Lục Chiến Mỹ, chỉ trỏ về hướng tôi nhưng không được vì cổng đã bị khóa kín và concertina đã kéo ngang qua rồi!
Tôi vội chở gia đình về nhà gần Lăng Cha Cả, dùng diện thoại gọi cố vấn Umberger. Lúc này ông Umberger đang ở ngã tư Phú Nhuận, đằng sau khu nhà thờ Cơ Đốc. Ông ta về đó chở gia đình người vợ VN tên là Liên, nhưng cả gia đình không chịu đi và khóc lóc thảm thiết. Umberger nhờ tôi thuyết phục, tôi nói hết lời qua điện thoại cũng không thành công. Umberger hẹn tôi đứng chờ ở lối vào cổng sau của DAO, gần trường Sinh Ngữ Quân Đội đi vô, ông sẽ đón tôi trên đường ông trở về DAO. Nhưng chuyện này không hề xảy ra vì tôi không đến điểm hẹn và tôi cũng không biết ông có đến chỗ hẹn hay không! (hiện nay ông Umberger đang ở Florida, mỗi lần hồi tưởng chuyện cũ, ông lại nhắc về trường hợp của tôi).
Lý do tôi không đến chỗ hẹn vì sau khi cúp điện thoại với ông thì gia đình anh Cường tôi từ Bến Lức chạy về. Cả gia đình cũng bị kẹt lại, không đi được!
Chúng tôi bùi ngùi nhìn nhau. Nhìn đàn con và các cháu dại khờ đứng quanh, chúng tôi không ai nỡ lòng nào bỏ chúng để trốn chạy một mình được cả! Anh em tôi bàn nhau thà rằng chấp nhận thương đau, tới đâu thì tới...
Ngay lúc đó anh Albert Boussière, một Pháp kiều và là anh em đồng hao với tôi, ái ngại nhìn tôi và rồi giục giã:
- Vous allez! Nous prendrons soin tout de votre famille allant en France avec nous plus tard. Allez, allez!
(Chú cứ đi đi, để vợ con lại cho tôi, tôi sẽ lo cho tất cả về Pháp cùng với chúng tôi sau này. Chú đi đi!).
Tôi lắc đầu cương quyết:
- Merci, j’ont pris ma décision. Je n’irai pas n’importe où maintenant!
(Cám ơn anh, em đã quyết định rồi. Em sẽ không đi đâu cả!).
Bầu trời Sàigòn vẫn nườm nượp trực thăng Mỹ bay tới bay lui, người ta thi nhau phóng xe đuổi theo hướng trực thăng bay để đến các cao ốc, hy vọng được cứu vớt. Thỉnh thoảng lại có vài quả pháo kích rơi đó đây, một vài trực thăng của Không Quân Việt Nam cũng bị bắn rơi, gây một cảnh tao loạn hãi hùng.
Khi đã quyết định ở lại rồi, lòng tôi bớt bức xúc, thanh thản hơn. Tôi phóng xe lại nhà bạn tôi. Thấy bạn vẫn ngồi thanh thản nhìn ngắm những biến động bên ngoài. Tôi mới sực nhớ là có lần bạn tôi ngỏ ý không muốn đi, mà chỉ muốn để gia đình đi mà thôi. Chúng tôi rủ nhau đi một vòng Sàigòn đến các bãi đáp trực thăng đang đón người trên các cao ốc. Đến đâu cũng thấy đông nghẹt người, họ chen lấn nhau để vào bên trong. Ngay tại bến tàu Sàigòn cũng vậy, hàng ngàn người đang chen chúc lên đầy một boong tầu của một thương thuyền rất lớn. Boong tầu đã chật cứng mà người thì vẫn đu đưa trèo lên. Ấn tượng hãi hùng về những cảnh chết chóc đã xẩy ra trên những chiếc tàu đông kịt người, di tản từ miền trung vào nam từ tháng trước đây, làm chúng tôi lo lắng cho số phận của họ.
Chúng tôi vòng xe về đường Công Lý, nơi có một điểm bốc trên một cao ốc cạnh tiệm bánh bao ông Cả Cần. Chúng tôi quan sát bên trong, cũng thấy hàng trăm người còn chen chúc đầy sân dưới, chưa tới lượt được lên lầu trên. Lầu thượng thì đã kẹt cứng người mà chưa được trực thăng tới bốc.
Trời lúc này bắt đầu nhá nhem tối, chỉ còn thấy vài chiếc trực thăng bay đó đây, tìm bốc những địa điểm quan trọng nào còn sót lại.
Cuối cùng thì Sàigòn bước vào bóng đêm, cũng là lúc không còn một bóng dáng trực thăng nào bay lượn trên không nữa. Cuộc cứu người di tản của Mỹ đã hoàn toàn chấm dứt, và chấm dứt luôn cả số phận của một quốc gia mà biết bao người đã hy sinh xương máu để xây dựng lên nó!
Chúng tôi trở về nhà, mỗi người một suy nghĩ. Tôi tự hỏi đây có phải là khởi đầu cho bước ngoặt của đời mình? Thôi đành vậy, cứ để định mệnh nó đưa đẩy đến đâu thì đến.
Đêm hôm đó tôi đưa vợ con đến nhà bạn ở vài ngày, cho qua đi những nguy hiểm và xáo trộn của mấy ngày đầu trong lúc hỗn quân hỗn quan. Gia đình anh đã đi hết, nhà cửa hoang vắng, chỉ còn lại 1 người tớ gái. Sự có mặt của gia đình tôi làm cho bầu không khí gia đình được ấm cúng hơn lên. Buổi tối đến, chúng tôi ngồi bàn luận, chuyện trò. Tôi không hối hận đã quyết định ở lại bên người vợ trẻ và mấy con dại.
Tôi cởi bộ quân phục, mũ nón, giầy bốt-đờ-sô đem lên sân thượng nhà anh tìm chỗ kín cất giấu, còn khẩu Browning 9 ly tôi giữ trong người để phòng thân.
Tuy vậy, suốt đêm tôi cũng thao thức không ngủ được, tâm trạng rối bời nghĩ đến ngày mai đen tối. Huệ nằm bên tôi khóc rấm rức, lòng tôi thấy quặn đau. Trên mười năm trong quân ngũ, tôi tiếc cho sự nghiệp tôi chấm dứt trong cảnh đành đoạn, bẽ bàng này. Nhìn lại suốt đoạn đời tuổi thơ, tôi đã trải qua bao nghịch cảnh. Thế hệ tôi là một thế hệ đầy thiệt thòi và bất hạnh. Chiến tranh triền miên, đói khổ, bất hạnh và chia lìa, bơ vơ và lạc lõng. Trước mắt đây sẽ là viễn ảnh đổi đời, chia xa và tù tội.
Hạnh phúc không ở lại lâu dài cho những thân phận của những người cùng thế hệ với tôi. Cuộc đời chúng tôi như những đụn cát trên sa mạc, lúc đầy lúc vơi, lúc tụ rồi tan theo những lớp sóng phế hưng của thời gian. Có những khoảnh khắc trong đêm quẫn trí tôi đã nghĩ tới khẩu súng. Nếu tôi tự kết liễu đời mình thì có chắc vợ con tôi có được hạnh phúc trong chế độ cộng sản hay không. Hay là cùng nhau chết cả?
Nhìn những đứa con thơ dại đang say ngủ như những thiên thần, tôi thấy lòng mình chùng xuống và hối hận vì những ý nghĩ cuồng dại. Người ta sống một đời, chết một người, sao lại kéo theo những người vô tội khác chết theo mình. Thiên đàng đâu có chấp nhận những kẻ chết cuồng sát cô đơn.
Cứ nghĩ ngợi miên man như vậy, tôi chìm vào giấc ngủ bồng bềnh, mệt nhọc....
Mười một giờ sáng ngày hôm sau, đang khi ngồi trong nhà, chúng tôi nghe mọi người trên đường phố xôn xao: xe tăng Việt Cộng đang tiến vào thành phố!
Dân chúng hoảng sợ, người trốn tránh, mọi người thập thò ngó ra đường theo tiếng loa kêu gọi của bọn nằm vùng. Rồi sau đó mọi người đều đổ xô ra bên đường để nhìn những xe tăng tiến vào. Tay giơ cao vờ vẫy gọi, vờ đón chào và hoan hô cuộc giải phóng thủ đô của quân-đội-nhân-dân-cách-mạng một cách sợ sệt, cay đắng và miễn cưỡng.
Hai chúng tôi đứng lẫn lộn trong đám đông bên đường, chứng kiến hình ảnh những chiếc xe tăng T54 đầu tiên của Việt Cộng, chậm chạp và thận trọng bò trên mặt đường Công Lý, ngang qua trước cửa chùa Vĩnh Nghiêm. Chúng tiến một cách cẩn trọng và đầy cảnh giác về hướng bộ Tổng Tham Mưu. Chung quanh xe có những cành lá ngụy trang, có cả xoong nồi treo lủng lẳng, những bao tải cũ lấm bùn đất, một hai chiếc xe đạp cải tiến, và một hai cây đàn guitar trầy trụa. Đám lính VC mặt non choẹt đứng trên pháo tháp, tay cầm súng lăm lăm chĩa lên, nhìn vào các ngôi nhà có lầu cao.
Nhìn kẻ thù đang ngạo nghễ trên những xe tăng và đại pháo, dân chúng hai bên đường miễn cưỡng vỗ tay chào đón, trong đó có cả chúng tôi. Tự dưng tôi không cầm được nước mắt, bật khóc sụt sùi nhưng tay thì vẫn giơ cao để vẫy vẫy! Một vài người đứng quanh có sẵn mấy cái cờ giấy nhỏ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cờ đỏ sao vàng từ hồi nào không biết, cũng giơ cao phe phất trước mặt, như muốn cho mọi người thấy rằng mình cũng đang sung sướng đứng đón quân đội giải phóng về để thoát kiếp sống đọa đầy (?!).
Không chịu đựng nổi nữa, tôi bỏ đám đông bước vào sau cổng chùa, tìm chỗ vắng úp mặt vào tường khóc tức tưởi. Khóc tủi hận cho vận nước, khóc tủi nhục cho phận mình. Chúng tôi như một võ sĩ thua trận cay đắng chấp nhận phần thua cuộc oan nghiệt, khi muốn đánh địch thủ mà chân tay mình bị người khác trói lại. Trời đất trước mặt tôi quay cuồng, tối sầm xuống một lúc khá lâu.
Bên ngoài đường đám người đeo băng tay đỏ bắt đầu xuất hiện, có đứa mặc giả cả những bộ đồ tu của sư sãi, tay cầm cờ đỏ sao vàng, cờ mặt trận giải phóng miền nam, phất lia lịa, hô hoán những khẩu hiệu cò mồi soạn trước, để hoan hô đón chào kẻ chiến thắng. Mặt mũi chúng vênh váo, mắt đằng đằng sát khí, nhìn soi mói vào dân chúng xem có ai là không vỗ tay hay không, làm như chính mình là VC thứ thiệt vậy, nhưng thực ra chúng chỉ là bọn bất lương, theo đóm ăn tàn, sinh ra vào ngày 30 tháng tư để nước đục thả câu, kiếm điểm với chính quyền mới.
Vừa ra khỏi cổng chùa, tôi bắt gặp một đoàn người đi lủi thủi sau lưng những người đang vẫy cờ hoan hô. Họ là những chiến sĩ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được lệnh đầu hàng, phải về dinh phó tổng thống giao nạp vũ khí. Họ rải rác đi từ hướng Tổng Tham Mưu về phía Sàigòn. Nhìn những người lính oai hùng này, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, quân phục rách từng mảng, thân thể trày trụa lủi thủi đi sau lưng đám đông, mặt còn ánh lên những nét căm hờn, lòng tôi thắt lại. Những trái lựu đạn mini, những khẩu M72 chống tăng, những súng chiến đấu cá nhân gọn nhẹ, tối tân với hỏa lực mạnh, đang đeo quanh người họ, cho thấy một hùng khí về hình ảnh oai hùng của người lính chiến Việt Nam Cộng Hòa vào những giờ phút cuối của cuộc chiến.
Tôi không thể quên được hình ảnh làm tôi nhớ đời này. Ở vào cái giây phút cuối cùng này, đời họ sẽ không bao giờ nhìn lại được cái hình ảnh kiêu hùng này nữa. Sự nghiệp chiến đấu vĩ đại của họ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa đến đây là chấm dứt!
Tôi len đến gặp vị sĩ quan chỉ huy đang đi cùng với lính mình, anh thấy tôi mắt còn hoen nước mắt nên biết là phe ta, anh lật nắp túi áo lên, cho tôi thấy 3 bông mai vàng đã cũ nằm dưới nắp áo, tôi nói nhỏ vào tai anh:
- “Đại úy nên cho các anh em vứt hết súng đạn đi, quần áo trận cũng vậy, cởi ra và bỏ hết, cần gì phải đi về tới phủ phó tổng thống mới làm việc này. Chúng nó trên các xe tăng nhìn thấy, nó tưởng mình đang muốn kháng cự thì rất bất lợi cho mình”.
Nhìn những cặp mắt ái ngại và tội nghiệp của đồng bào đứng quanh, anh hùng hổ nói:
- “Đ. mẹ tụi nó, tụi tôi sợ gì. Mới thổi sụm 3 chiếc Tank của nó, một ở ngã tư Bảy Hiền và hai ở trước cổng bộ Tổng Tham Mưu thì bị lệnh trên bắt phải buông súng trở về, nếu không thì chơi chết mẹ tụi nó chứ sợ gì ai. Thiệt là căm tức và tủi nhục!"
Tôi quay mặt đi với dòng nước mắt cảm thương cho họ và cả cho mình. Vì đâu chúng tôi phải thua cuộc nhục nhã và tủi nhục như thế này?
Một vài binh sĩ đã nghe lệnh anh, ra cầu Công Lý gần đó để vứt rải rác xuống sông, súng đạn và quần áo. Dòng nước cuốn đi những bộ quân phục của những con người dũng cảm, một đời chiến đấu cho lý tưởng của mình, nhưng giữa đường thì bị bóp nghẹt để chết tức tưởi, đau thương!
Những người dân nhà ở gần đó chạy về nhà mang đến cho họ mấy bộ quần áo dân sự để họ mặc đổi đời...
Ngày trình diện học tập tại trường Trần Hoàng Quân gần Ngã Sáu Sàigòn, tôi có gặp một sĩ quan cấp tá cùng đơn vị, người đã từng nhận nhiều ân sủng và nâng đỡ của tướng Bê, nhưng có lẽ thỉnh thoảng hắn bị tướng Bê “chịt command” (xài xể trong công việc làm) trong các buổi họp, nên mang trong lòng sự oán hận nào đó. Nhìn thấy tôi đứng xếp hàng, cách hắn vài hàng để vào trong trường trình diện, chung quanh có đầy lính gác VC, hắn bô bô hỏi tôi về tin tức tướng Bê một cách xách mé, đểu cáng và hỗn hào:
- Ê Phú, “thằng Bê“ có đi thoát hay không, ông có gặp “no" đâu không?
Hắn muốn tỏ cho những người cùng cảnh ngộ đứng quanh rằng, chỉ có mình hắn là ở lại với quê hương, còn những tướng lãnh và các nhà lãnh đạo khác đều hèn hạ bỏ chạy hết! Tôi sững sờ với câu hỏi xỏ xiên này. Đỏ mặt vì giận, nhưng tôi kịp giữ bình tĩnh lại, tiến tới bắt tay nó hờ hững như để chào hỏi, rồi làm như đột ngột bị ho, tôi khạc một bãi nước bọt nhổ trước mặt nó, và bỏ về hàng bên này!
Thay cho lời kết:
Vết thương của 30 năm trước đã qua, bây giờ nghĩ lại tuy thấy vẫn còn đau, nhưng cường độ đã giảm bớt nhiều. Thời gian là một liều thuốc tuyệt diệu để hàn gắn vết thương lòng. Dù cho lịch sử được viết sai bởi kẻ chiến thắng, nó có bóp méo chân lý của sự thật, và đã làm cho ngay cả thế hệ hiện tại, chứ đừng nói là thế hệ mai hậu, đang nhìn cha ông của chúng thiếu đi lòng kính trọng. Nhưng công lý vẫn có thể có được, sự thật vẫn là một bất biến của trời đất, nhất là vì chúng ta sẵn có lòng bác ái và vị tha! Chúng ta tha thứ những sự tàn ác, gian manh và bất lương của kẻ thù và bỏ qua sự bội phản của bạn hữu, để nghĩ tới niềm hạnh phúc của con cháu, sớm có một tương lai tốt đẹp hơn với thanh bình, tự do và hạnh phúc.
Nhắc lại chuyện cũ không phải là để oán hận ai mà là để rút ra cho đời một kinh nghiệm sống.
Tôi không oán trách ai, không oán hận các nhà lãnh đạo và các cấp chỉ huy cũ của mình. Cho dù họ có những khuyết điểm trong việc lãnh đạo đất nước, có khuyết điểm trong việc điều khiển cuộc chiến này, họ đều đáng được tha thứ và kính trọng. Nếu trước đây thái độ sống cũng như tư cách đạo đức của từng cá nhân họ tốt hay xấu, thì sẽ được người đời nể trọng, với thiện cảm ít hay nhiều mà thôi. Còn chúng ta đều đáng thương hại như nhau, vì tất cả mọi người Việt Nam, đều mang trong người một lòng yêu nước nhiệt thành, một lòng mong muốn có được tự do, dân chủ và không cộng sản.
Chúng ta là một nước nhược tiểu mà số phận được định đoạt bởi kẻ khác. Cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến được khởi đầu và kết thúc bởi bọn con buôn. Nó được định đoạt không bởi những con người dũng cảm chiến đấu bảo vệ cho quê hương họ, mà bởi những quyền lợi của những kẻ nước ngoài, của những kẻ chỉ biết biểu tình phản đối ngay trên đường phố của nước Mỹ!
Ở đây tôi xin bầy tỏ lòng kính trọng với các cấp chỉ huy cũ, những người đã cho tôi cơ hội được hãnh diện phục vụ dưới quyền, mở mắt cho tôi bao nhiêu bài học làm người. Tôi cũng xin bầy tỏ lòng quý mến đối với các anh em sĩ quan và binh sĩ đã cùng tôi phục vụ dưới chung một màu cờ tổ quốc, mà chẳng may cột cờ bị gãy ngang ở đoạn giữa, bởi vì vận nước chúng ta đã được an bài trong một bàn cờ định mệnh.
Hàn Phú
(Hình ảnh ngày 30/4/1975 - tượng trưng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét