Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Từ Người Việt Tị Nạn... - Trần văn Giang


1.- Cơ hội "ngàn năm một thuở" tại các trại tị nạn mà dân Việt gần như không thể có được khi sống tại Việt Nam là: sự tự do thay đổi lý lịch và học Anh ngữ miễn phí. Thực ra, đây cũng là hai sinh hoạt bận rộn và nhộn nhịp nhất của dân Việt tạm trú tại các trại tị nạn. Sự thay đổi lý lịch gồm cả việc đổi tên, đổi tuổi và đổi sự không tưởng: địa vị xã hội [social status]. Chị Nguyễn Thị Gáo với một cái tên cúng cơm rất mộc mạc, hiền lành của "hoa đồng cỏ nội." Từ sau khi chị bị té giếng, hồi còn là thiếu nữ ở Cần Thơ, đầu óc của chị cho đến nay chưa hoàn toàn tỉnh táo, đó có thể là lý do mà chị vẫn còn "độc thân tại chỗ" với cái tuổi ba mươi mí rồi. 
<!>
Nhân cơ hội ngàn năm một thuở này, chị đổi tên cho có vẻ tỉnh thành, thơ mộng, văn nghệ hơn; và đổi tuổi cho trẻ trung hơn là: "Nguyễn Thị phương Loan" hai mươi mốt tuổi. Mẹ của chị Gáo, cụ bà Nguyễn Thị Thau, thường than phiền với hàng xóm tị nạn là:
- Chèng đét ơi! Tôi đặt cho nó tên là Gáo, tức là gáo dừa để múc nước cho sạch sẽ và bền bỉ. Không biết ăn nhằm cái giống gì, “mắc chứng gì” mà nó đổi tên thành "Lon!" [Loan] bằng sắt cho nó mau rỉ sét, mau lủng.
Với sự thay đổi đầy tiện nghi này, hy vọng rằng chị đã gặp được tình quân, có thể là cựu "Trung Tá Y Sĩ" hay cựu "Đại Tá" một cách mau chóng.

Cụ Lý Toét nằm chung lều [mỗi lều trong trại có thể chứa khoảng 4 đến 6 gia đình tị nạn] với tôi đã 65 tuổi, tức là tới tuổi hợp lệ về hưu ăn"tiền già" nếu sống ở đất Mỹ. Vì chúng tôi thuộc đợt thuyền nhân đầu tiên, ú a ú ớ, không có người hướng dẫn, cứ sợ ra khỏi trại Mỹ nó thấy tuổi già không mướn làm việc thì chết đói mất. Cụ tự khai rút lại tuổi, chỉ còn có 55! Tôi đoán là cụ sẽ đấm ngực "lỗi tại tôi; lỗi tại tôi mọi đàng! " về cái lỗi lầm quá tai hại này! Bởi vì cụ sẽ còn phải "cày" thêm khoảng một chục năm nữa mới về hưu được! Có lẽ cụ đã qui tiên trước khi nhận cái "check"phụ cấp hưu trí đầu tiên của sở xã hội Mỹ. Tội nghiệp chung cho dân tị nạn, nhân bần chí đoản. Chỉ vì sự lo âu về sinh kế trên đất lạ mà đầu óc trở thành đặc kịt như khoai tây, không thể phân tích lợi với hại; hai mắt giống như mắt ngựa kéo xe bị che cả hai bên, không nhìn xa được. Cho nên tự ý khai báo lại, sửa đổi tầm bậy tầm bạ trong cái hoàn cảnh vô luật lệ, vô sổ sách này.

2.
Gia đình Bác Toàn [không phải tên thật,] cũng ở chung lều với tôi. Trong lần đầu tiên tiếp chuyện với Bác gái, Bác đã "khiêm nhường" thông báo cho tôi cái địa vị xã hội của gia đình Bác như sau:

- Ông nhà tôi là "cựu Đại Tá" của QLVNCH! Trước đây gia đình tôi làm chủ 3 tiệm thuốc tây ở Sài gòn. Gia đình tôi còn có cả một bầy vú em, con ở phục vụ. Bây giờ ở đây [trại tị nạn] cái gì cũng phải tự làm lấy.Thật khổ ghê!
Cô con gái lớn của Bác, người có cái nhan sắc giống như nhan sắc của anh hề Tùng Lâm, cứ luôn miệng than vãn là:

- Tiếc quá, lúc "chạy" không đem theo được "con nhỏ làm tóc." Bây giờ đầu tóc như ổ quạ. Thật rõ chán!

Nhận xét của chị thật đúng! Tóc của chị cả lúc nào nhìn cũng giống như đau ban mới khỏi!
Lúc đó tôi ngây thơ, rất "nể nang" cái "danh giá" của gia đình Bác. Tôi vẫn tiếp tục giữ liên lạc, thăm hỏi gia đình bác nhiều năm sau khi ra khỏi trại tị nạn. Gia đình Bác được bảo trợ [sponsored] và định cư tại San Diego ngay từ ngày đầu của tháng 9 năm 1975. Bác trai sau này làm "Security Guard" và Bác gái chứa cờ bạc xì phé ở nhà để kiếm thêm tí tiền "xâu" cho ngân quỹ gia đình.

Năm 1984 tôi lập gia đình. Tôi đã mời hai bác tham dự đám cưới của tôi. Tại đám cưới này, tôi mới biết sự thật về cái "danh giá" của gia đình Bác. Đồng thời cũng tại đám cưới của tôi, Bác gái mới biết được là quả đất tròn; không có gì che dấu được lâu dưới ánh sáng mặt trời. Bác trai, trước năm 1975, là Trung Úy của cục Tiếp Vận và làm dưới quyền của Trung Tá Chín. Trung Tá Chín cũng được ông Bố vợ tôi mời dự đám cưới của tôi vì Trung Tá hồi còn ở chức vụ Thiếu Tá, đã từng là Sĩ Quan cùng đơn vị với Bố vợ của tôi. Hai thầy trò [Trung Tá Chín và "Đại Tá" Toàn] gặp nhau trong hoàn cảnh không có hẹn trước tại đám cưới này. Như tôi được giải thích rõ rằng hơn sau đó, nhà Bác Toàn chẳng có làm chủ tiệm thuốc tây nào cả. Bác gái chỉ buôn lậu thuốc Tây lặt vặt [có thể là buôn bán thuốc Tây giả!] Nhà Bác ở trong một ngõ hẻm ở khu Trương Minh Giảng cũ. Đi bộ từ ngoài đường cái vào đến nhà Bác phải hát bài “Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa" hết ba lần mới đặt chân tôi cửa nhà Bác. Khi muốn trở ra đường cái từ nhà Bác, tốt nhất là phải nhờ con Bác dẫn ra, nếu không, bảo đảm sẽ đi lạc nếu đến thăm nhà Bác lần đầu. Bác gái đã thật can đảm thăng một lúc 4 cấp cho Bác trai, từ "Trung Úy" lên tuốt luốt "Đại Tá” không phải tại mặt trận, mà tại trại tị nạn chỉ vài ngày sau "30 tháng 4 năm 1975."

3.
Trong tại tị nạn, sự thay đổi địa vị xã hội tương tự như vậy không phải là hiếm. Anh binh nhì tự thăng cấp mình lên thành Thượng Sĩ. Anh"Trung Sĩ Y Tá" thành "Trung Tá Y Sĩ." Anh "Thư Ký Hành Chánh" thành Phó Tổng Giám Đốc ..v.. v.. Người nào cũng làm quan lớn, chủ tiệm, chủ thương nghiệp, chủ chợ, chủ phố cho Mỹ mướn, chủ vựa cá, chủ đồn điền cà phê, chủ đồn điền trà, hoặc chủ ruộng đất cò bay thẳng cánh. Chẳng có ai làm lính trơn, chài lưới, cày ruộng, du đãng đường hẻm, cướp giựt hoặc ăn mày vô sản bần cố nông cả. Thật đúng là loạn! Không biết đâu là vàng, đâu là thau để xét đoán, lựa chọn. Nhiều cô gái ngây thơ nhẹ dạ, sau khi say mê nghe các anh "tài tử" thuyết trình không nghỉ về cái lý lịch "trời ơi đất hỡi," vô căn cứ, đã vội vã làm đám cưới với các anh có cái lý lịch "vàng son" này ngay tại trong trại tị nạn. Khỏi cần phải bàn thêm, các cô này bây giờ có lẽ không sớm thì muộn, đã thấy hoặc phát giác ra cái thực tế, cái lý lịch "lủng" của các thợ "phỉnh" một cách phũ phàng! Một số lớn các cô này đã trở thành nữ thi sĩ. Hèn gì! thi sĩ Hà Huyền Chi đã có lần nhận xét như sau: - Sau ngày "30 tháng 4 năm 1975," văn đàn Việt Nam ở hải ngoại bị lạm phát thi sĩ.

4.
Việc học Anh Ngữ miễn phí trong trại tị nạn mới thật là ngoạn mục.Trong đời đi học của tôi, tôi chưa thấy bao giờ học sinh lại chăm chỉ như vậy. Tôi nhớ hồi còn ở Saigon, Mẹ tôi phải chạy ngược, chạy xuôi vay nợ để cho tôi có tiền đóng tiền trường học thêm Anh Ngữ tại trường Nguyễn Ngọc Linh vào buổi tối. Thế mà tôi vẫn cố gắng tìm mọi cơ hội để "cúp cua" trốn học. Bây giờ thì tình thế hoàn toàn khác hẳn. Lính TQLC Mỹ đã dựng một số lều thật lớn để dùng làm lớp dậy Anh Ngữ. Thầy giáo, cô giáo hầu hết là những người Mỹ tình nguyện của các hội Thiện Nguyện Tình Nguyện Nhân Đạo [gọi tắt là cơ quan"Volag"] dậy học Anh Ngữ cho dân tị nạn. Họ không lãnh lương bổng gì cả. Sau giờ ăn chiều, chỉ chậm chân một tí là không tìm được chỗ ngồi trong các lớp học này. Phải đứng suốt cả mấy tiếng đồng hồ.
Những "sex symbol" của trại là các anh thông dịch viên, những anh trợ giáo [teacher aids] cho các thầy các cô người Mỹ của các lớp học Anh Ngữ này. Các anh trợ giáo nầy đại đa số là nhân viên cũ của sở Mỹ ở ViệtNam. Các anh trợ giáo nói Anh ngữ nghe như gà tây kêu, thế mà sao lúc đó tôi còm dốt đặc như cán mai, không thể phân biệt được thế nào là hay thế nào là dở cả! Mọi người trong trại tị nạn ngưỡng mộ các anh trợ giáo như thần tương. Các em gái xinh đẹp thơ mộng của trại bị các anh này "cua" hết ráo! Dân tị nạn đực rựa độc thân thuộc loại "ngọng" như tôi chỉ có nước ở giá.

5.
Cụ Lý Toét luôn luôn chọn chỗ ngồi cạnh tôi trong lớp học anh ngữ. Lý do là chúng tôi ở chung lều, đã quen thuộc với nhau rồi. Kẹt kẹt, cụ phải cần hỏi tôi về Anh ngữ thì cũng không ngượng. Cũng nên biết, cụ hỏi tôi không phải vì tôi giỏi giang gì! Nhưng vì tôi cũng đã biết "lõm bõm" Anh ngữ, còn cụ chưa từng đi học Anh ngữ hay tiếp xúc với ngoại quốc bao giờ cả. Thắc mắc đầu tiên của cụ là:

- Này anh ạ, tiếng Mỹ sao quái đản quá vậy" "ai"[I] cũng là tôi, mà "mi" [me] cũng là tôi" Không biết đường nào mà lần. Anh chỉ tôi cách phân biệt "ai" với "mi" sau giờ học nhé.

Sau vài tuần lễ, cụ Lý Toét có vẻ tự tin hơn. Lớp học Anh ngữ đã tiến đến cấp khó hơn; có nghĩa là học trò phải tập nói làm một câu dài đầy đủ chủ từ, động từ và túc từ chứ không phải học từng chữ một như mấy tuần đầu. Thầy giáo cho học sinh trong lớp tuần tự đọc và áp dụng câu "this is a..."
- This is a door.
- This is a chair.
- This is a table.
Rồi đến lượt cụ Lý Toét. Thầy giáo chỉ vào một cái ghế bố [TQLCMỹ phát cho mỗi dân tị nạn một ghế bố gấp lại được để làm vừa giường ngủ vừa làm ghế ngồi] xếp đứng ở trong góc lớp và ra dấu cho cụ lập câu và đọc. Mọi người đều được dịp cười gần bể bụng vị cụ Lý Toét dịch là:
- This is a "Chair Father! "
Ối giời đất ơi! Cụ đã ghép chữ đúng theo nghĩa đen."Ghế" là "chair" và "Bố" là "father." Tôi phải giải thích cho cụ sau này tốt hơn là nên tránh dịch nghĩa đen như vậy. Mình nên học thuộc lòng cái danh từ Anh Ngữ của từng đồ vật hay người. Ghế bố phải được dịch là "Cot" chứ không phải là "chair father! "

6.
Anh "Thượng Sĩ" Tiến, người cũng ở cùng lều với tôi, sáng nào anh cũng ngồi trên ghế bố cầm đọc đọc tờ báo Anh ngữ mà anh vẫn nhặt từ thùng rác do lính TQLC Mỹ quẳng để "hù" bà con láng giềng trong lều. Các cụ cao niên cứ tấm tắc khen anh Tiến là "giỏi quá, đã đọc được báo Mỹ rồi!" Riêng tôi, qua nhiều lần ngồi nói chuyện với anh về vấn đề học Anh Ngữ, tôi vẫn có câu hỏi thật lớn là không biết anh Tiến có đủ trình độ Anh ngữ để đọc báo Mỹ không. Nhưng dù sao tôi phải khen ngợi anh ở chỗ anh có cố gắng. Một hôm, sau khi đọc mục rao vặt, tìm việc, anh nói lớn, trống không để cho mọi người trong lều cùng nghe chứ không nói trực tiếp riêng với người nào cả:

- Ở ngoài [trại tị nạn] Mỹ họ mướn người "coi con nít trên xe buýt" mà cũng trả đến $2.10 một giờ [lương tối thiếu lúc bấy giờ.]

Vì có tính hiếu kỳ nên tôi mới hỏi anh:
- Cái nghề đó tiếng Mỹ gọi là gì đó anh Tiến"
- Đó là nghề "Busboy." Anh trả lời.

Tôi may mắn đã biết được nghĩa chữ nầy hồi còn đi học Anh văn buổi tối ở Sài Gòn, nên tôi nói:
- Không phải đâu anh. "Busboy" là người dọn bàn trong nhà hàng đó!

Nhưng anh Tiến cứ nằng nặc cãi cho bằng được "Busboy" phải là "coi con nít trên xe buýt." Cuối cùng, tôi đành phải chào thua anh vì sự quả quyết của anh làm tôi cũng áy náy, ngờ vực không biết mình nhớ đúng hay sai!

Trong lớp học, anh Tiến à người hăng hái đưa tay hỏi thầy cô về mọi vấn đề của cuộc sống bên ngoài trại tị nạn. Anh hỏi cả cách chửi thề bằng tiếng Mỹ như thế nào. [Nên biết anh Tiến hỏi thầy bằng tiếng Việt và câu hỏi được trợ giáo dịch ra Anh Ngữ để cho thầy hoặc cô trả lời.] Riêng câu hỏi về chữ chửi thề bằng Anh ngữ, cô giáo trả lời là anh không cần phải học trong lớp. Khi ra khỏi trại, đời sống sẽ dậy cho anh biết một cách tự nhiên.

Có một lần, cô giáo yêu cầu anh dịch một câu ngắn làm thí dụ cho một đề tài về làm câu của buổi học. Anh Tiến dịch là:
- "Your eye is as beautiful as the stars. [Mắt em đẹp như những vì sao!]"

Cô giáo khen là câu nói của anh Tiến rất "lãng mạn!"[romantic.] Nhưng rất tiếc là, theo lời cô giáo, người yêu của anh Tiến chỉ có một mắt! !! Câu này phải nên sửa lại với mắt là số nhiều:
- "Your eyes are as beautiful as the stars."

Sau này, tôi có dịp gặp lại anh Tiến ở San Jose khoảng năm 1992. Anh làm chủ một cây xăng "Shell." Lúc đó có lẽ anh đã biết phân biệt danh từ số ít và số nhiều mạnh giỏi rồi.

7.
Khi làm giấy tờ định cư tại "processing center" trong trại, Tôi gặp một ông Mỹ trắng chỉ dẫn dân Việt tị nạn cách điền vào các mẫu đơn và hoàn tất hồ sơ nộp cho Sở Di Trú Hoa Kỳ. Rất đặc biệt là ông ta nói tiếngViệt trôi chảy. Tiếng Việt với giọng Quảng Nam mới ly kỳ. Tôi rất lấy làm thích thú vì trong khi mình còn ấp a ấp úng chưa nói được chữ tiếng Mỹ nào ngoài đường mà đã có người Mỹ nói tiếng Việt quá giỏi! Tôi tìm cách lân la lại làm quen với ông Mỹ này và được biết ông là Mục Sư Tin Lành đã từng làm việc Tuyên Úy cho quân đội Mỹ tại Việt Nam.

Tôi hỏi Mục Sư:
- Thưa Mục Sư. Mục Sư có biết là đang nói tiếng Việt với giọng"Quảng Nam" không?"

Mục Sư trả lời:
- Tôi biết chứ! Ông thầy tôi là người "Đè Nẽng" mà! Tôi còn phân biệt được giọng Bắc, giọng Nam và giọng Huế nữa.

Tôi hỏi thêm:
- Thế Mục Sư đã có gặp những trường hợp khó khăn nào khi giao thiệp với người Việt bằng tiếng Việt chưa?"
- Có nhiều lần rồi! Trong một lần đọc bài giảng [sermon] cho giáo dân tin lành người Việt trong trại tị nan. Tôi lấy làm lạ vì thấy họ cười khúc khích với nhau. Sau buổi lễ, hỏi ra thì tôi mới biết là tôi dùng dấu chữ Việt trật lất làm cho ý nghĩa thay đổi hết. Thay vì tôi muốn nói: "Chúa 'ban' phước lành cho anh chi em [God bless you all.]" Tôi lại nói là: "Chúa ‘bán’ phước lành cho anh chị em [God sell the blessing to you all!]" Trong một lần khác, tôi nói: "con chim nó 'ngồi' trên cây [the bird is sittingin the tree.]" Đáng lẽ tôi phải nói: "con chim nó 'đậu' trên cây mới đúng."
Tôi xin bái phục vị Mục Sư Mỹ này làm Sư Phụ.

8.
Năm 1976, tôi và tám chín đứa "tứ cố vô thân" và"thất cơ lỡ vận" giống như hoàn cảnh của tôi, mướn chung nhau một "apartment" 2 phòng ngủ ở San Diego - California và chia nhau tiền thuê mỗi tháng cho đỡ tốn kém vì đứa nào cũng làm lương tối thiểu cả. Mỗi lần, vì một lý do nào đó, "Manager" của khu "apartment" đến thăm, thì đám "tứ cố vô thân" vội vàng chạy trối chết trốn vào trong các tủ [closets] quần áo, bởi vì điều lệ thuê nhà không cho phép người thuê ở quá đông như vậy. Họ biết sẽ đuổi cổ ra khỏi "apartment." Thật tội nghiệp! Bạn cứ tưởng tượng quang cảnh chúng tôi lúc đang ăn cơm vội vàng bỏ bát đũa chạy vào tủ quần áo để trốn; giống hệt như lúc bạn bước vào bếp buổi tối, bật đèn lên rồi nhìn thấy một đàn gián [cockroaches] chạy bán sống bán chết vào các góc kẹt trong nhà bếp vậy!

Trong đám "tứ cố vô thân" này có anh "roommate" Sĩ Phú. Anh Phú, chẳng những là một ca sĩ tài danh mà còn là một Thiếu Tá phi công trực thăng của KQVN. Anh Phú nói tiếng Anh rất giỏi vì anh Phú đã được đi học lái trực thăng tại Hoa kỳ. Anh Phú chạy qua Mỹ với cùng tình trạng "khố rách áo ôm" như tôi. Anh "độc thân tại chỗ" vì bỏ lại vợ và 5 con ở Việt Nam. Lâu lâu, cuối tuần mấy anh em thường rủ nhau đi nhà hàng Mỹ để nghe nhạc sống cho đỡ buồn. Một hôm, vì ngứa nghề, anh Phú lên nói với anh chàng Mỹ trưởng ban nhạc là anh muốn được lên hát góp vui một bản nhạc. Không biết anh nói thế nào mà anh trưởng ban nhạc, sau đó, nói qua cái"micro" tuyên bố với tất cả thực khách là:
- Ladies and Gentlemen, this is my honor to introduce to you our spcial guest singer, Mr. "Seafood" who will sing for us a beautiful hit song, the "Unchained Melody."

Từ sau hôm đó, anh Phú có cái "nickname" là "Mr.Seafood."
Đến khi tôi thấy đã khuya rồi, ngày mai còn phải dậy sớm đi cày. Tôi nói với đám "tứ cố vô thân:"
- Thôi mình đi về đi! Mai còn phải dậy sớm đi làm.

Anh Phú trả lời là:
- Mày chờ tao vào "restroom" để "giặt" [wash] bộ râu xong rồi mới về nghe.

Sau này, khi có dịp gặp lại anh Phú lúc anh còn sống, tôi vẫn thường nhắc lại với "Mr. Seafood" về cái kỷ niệm này.

9.
Hôm nay, cái "nạn" của đất nước đã đánh dấu năm thứ 32. Nhiều người tị nạn trong chúng ta đã đổi quốc tịch để thành "Mỹ gốc Á châu!" Tên họ được viết đảo ngược [tên gọi đặt trước tên họ.] Nhiều người còn tiến bộ hơn, đổi cả tên lẫn họ thành tên Mỹ. Anh bạn Nguyễn Văn Tèo bây giờ trên giấy tờ là "Tony Newell!" Lúc đầu đọc nghe thấy kỳ kỳ; nhưng riết rồi cũng quen. Tôi còn nhớ lúc anh Tèo mới vào quốc tịch với cái tên mới Tony, bạn Mỹ gặp anh trên đường phố, gọi anh: "Tony, Tony..." Vậy mà anh nghe thấy, vẫn cứ bước đi thẳng như không có chuyện gì xẩy ra! Chính ngay anh cũng quên tên mới của anh là "Tony! " Có một lần anh đi ra tiệm giặt ủi của Mỹ để lấy quần áo giặt ủi về. Bà chủ tiệm người Mỹ nhìn cái biên nhận với cái tên mới "Tony Newell" của anh, rồi bà ta nhìn anh nói là:
- You do not look like "Tony Newell" to me!

10.
Hơn ba mươi năm trời trôi đã qua mà cứ tưởng như mới ngày hôm qua. Đầu óc tôi cứ lơ đãng để ở một nơi nào đó ở Phi Luật Tận. Tôi chợt bừng tỉnh với cái thực tế của hiện tại khi thằng con trai bẩy tuổi của tôi gọi to:

- Bố! bố! "Giặt" cái đầu cho con. Xà bông đang chẩy vào mắt con"nóng" quá!

Tôi nghe mà không khỏi vừa cười thầm vừa lo âu! Cười thầm vì tiếng Việt đã bị Mỹ hóa nghe khôi hài, ngớ ngẩn. Lo âu vì không biết tương lai tiếng Việt trên đất Mỹ sẽ đi về đâu" Chính bản thân tôi tiếng Mỹ đã không thấy giỏi hơn chút nào mà tiếng Việt đã quên bớt đi rất nhiều. Lo âu cho thế hệ con, thế hệ cháu về sau này. Không biết tiếng Việt có trở thành "endangeredspecies" giống như voi và tê giác ở Phi Châu đang bị giết để lấy ngà làm đồ trang sức và sừng làm thuốc bắc hay không"

Trở về thăm quê nhà, nói chuyện với bạn bè cũ, láng giềng cũ thì sự lo âu đó càng to lớn hơn. Mình là người ngoại quốc sống trên đất Mỹ đã đành. Bây giờ, mình cũng lại là người ngoại quốc đối với ngay quê hương cha sanh mẹ đẻ của mình. Đó là cái giá mà mình phải trả cho sự tự do. Đành phải chấp nhận"gặp thời thế, thế thời phải thế."

Người Việt ở quê nhà bây giờ đang nói tiếng Việt với một bộ chữ Việt khác hẳn với chữ Việt như hồi tôi còn sống ở quê nhà. Nhiều khi tôi phải nhờ người nhà giải nghĩa mới hiểu!

"Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này!"
(Nguyễn Công Trứ)
- Quân Tử Cố Cùng
"Xin trời đất thương cho nước Việt và dân Việt!" Tôi vẫn thường cầu nguyện.

TRẦN VĂN GIANG

*****************************************************

Dũng cảm
KHI MẸ MẤT TÔI MỚI HIỂU: BÀ BIẾT CỘNG SẢN HƠN NGÀN LẦN TÔI
(Viết nhân mười năm ngày giỗ của mẹ)

Suốt cuộc đời này, tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh mẹ tôi ngồi trên chiếc ghế sofa, lặng lẽ nhìn con mình, tay bị còng, bước ra khỏi căn nhà quen thuộc. Sau khi ra tù, tôi đã ghi lại giây phút ngắn ngủi trong biến cố lớn lao của cuộc đời mình, thế này:

“Tay bị còng, tôi cúi xuống hôn mẹ. Một cái hôn vội vã. Bà vẫn ngồi yên trên chiếc ghế hàng ngày bà vẫn ngồi, hời hợt đáp lại nụ hôn của tôi. Bà quan tâm đến những kẻ bắt con bà hơn:
-Như vậy là các anh đã bắt con tôi về tội yêu nước.

Câu nói ấy đã khích lệ tôi suốt bốn năm tù. Phải nhiều ngày sau tôi mới lý giải được vì sao lúc đó bà không đứng dậy tiễn tôi. Không phải không muốn, mà khi đó mẹ tôi đã không còn đủ sức để đứng lên. Sức lực còn lại bà đã dồn cả vào câu nói cuối cùng để không chỉ kết tội những kẻ đã bắt con bà, mà là sức mạnh truyền sang cho tôi”.

Nhưng còn có những chuyện thương lắm, mà sau này ra tù tôi mới được biết. Các chị tôi kể, sáng hôm ấy, khi nhìn thấy chiếc xe thùng đậu bên ngoài, mẹ tôi biết ngay điều gì sẽ xảy ra. Nhân lúc điện thoại còn chưa bị cúp, bà gọi các chị tôi, dặn không được ghé nhà. Bà sợ các chị thương em, không nhịn được, lại nói dăm ba câu đôi co với công an, không khéo bị họ thù, rắc rối to. Ở Việt Nam, nếu “một người làm quan cả họ được nhờ” thì một người mang danh chống chế độ cũng khiến cả nhà, thậm chí họ hàng, bè bạn, đồng nghiệp, hàng xóm bị liên lụy. Mẹ tôi lo là vậy.

Buổi chiều, sau khi tôi đã bị đưa đi, mẹ tôi vẫn không cho các chị về. Sáng hôm sau, không còn bóng dáng viên công an nào lảng vảng quanh nhà, mẹ tôi mới gọi các chị tới. Các chị kể: “Vừa bước vào nhà, nhìn thấy mẹ hốc hác, chân tay run rẩy mới thấy mình ngu. Không hiểu sao hồi ấy mẹ dặn thế mà cứ nghe theo răm rắp, chả thắc mắc gì. Lẽ ra lúc đó càng phải chạy về với mẹ. Khổ thân mẹ, một mình phải chống chọi với lũ đầu trâu mặt ngựa. Nghĩ đến, ân hận mãi”.

Không biết phải mất bao lâu mẹ tôi mới đứng lên được, sau lúc tôi bị đưa đi. Bà đã một mình trải qua những giờ phút khủng khiếp nhất, cô đơn nhất, buồn thảm nhất trong cuộc đời. Nhưng không chỉ có lần ấy, trải qua hai thời cộng sản, mẹ tôi đã gần như một mình chống chọi với mọi sóng gió, mọi biến cố trong suốt cuộc đời, từ thời thơ ấu đến lúc nhắm mắt xuôi tay.

Mẹ tôi sinh ở làng Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng, cùng quê với cụ Mạc Đăng Dung- vị Hoàng đế sáng lập ra triều nhà Mạc. Mẹ tôi là út trong một gia đình nông dân nghèo có bốn người con, quanh năm thiếu thốn. Năm mẹ tôi lên hai tuổi, bà ngoại tôi qua đời. Hai năm sau, ông ngoại tôi cũng ra đi sau một thời gian bạo bệnh. Mẹ tôi thành trẻ mồ côi.

Suốt tuổi thơ đến lúc trưởng thành, mẹ tôi phải ở đợ, hoặc làm con nuôi cho hết nhà này đến nhà khác. Giống như mọi làng quê khác ở Miền Bắc đầu thập niên 50 thế kỷ trước, cuộc Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất xồng xộc kéo đến, biến ngôi làng Cổ Trai hiền hòa thành nơi giết chóc, thù hận, hoảng loạn với những cuộc đấu tố man rợ.

Mẹ tôi được lùa ra sân đình để đấu tố cha mẹ nuôi, một gia đình nông dân có vài mẫu ruộng, một con trâu, đủ để bị liệt vào thành phần địa chủ ác ôn cần bị “tòa án nhân dân” xử tử. Bà kể, cán bộ hỏi đi hỏi lại mấy câu đại ý như, có bị chủ bỏ đói, bị đánh đập, ngược đãi không.
Khi mẹ tôi trả lời không, họ lại mớm lời, kiểu như là phải tố, dù chẳng có tội gì. Mẹ tôi quả quyết: “Bố mẹ nuôi đối xử tốt với tôi. Ông bà thương con đẻ thế nào thì thương tôi như thế. Tôi không bị bỏ đói, không bị mắng chửi hay đánh đập”. Thuyết phục không được, đến tối họ đành cho mẹ tôi về. Bà kể, lần đó ai cũng nghĩ mẹ tôi bị bắt đi luôn. Trong làng, có người không chịu tố điêu nên bị đánh đập, bị nhốt qua đêm. Thấy mẹ tôi về, ai cũng mừng. Ông bà chủ, người nhận mẹ tôi làm con nuôi, khóc như mưa như gió. Họ biết rằng, chỉ một lời tố điêu của mẹ tôi, họ sẽ bị lôi ra trước bàn dân thiên hạ, bị đấu tố, bị tra tấn, đọa đày bằng những cách thức man rợ vượt xa sự chịu đựng của con người, trước khi bị hành quyết.
Tôi tò mò hỏi: “Thế hồi đấy mẹ không sợ à?”. Mẹ tôi đáp: “Họ đối xử tốt thì mình nói tốt. Họ không ngược đãi, không đánh đập chả lẽ lại bảo họ đánh. Có sao nói vậy. Sự thật thế nào nói thế ấy thì việc gì phải sợ”.

Và mẹ tôi không sợ thật. Mấy chục năm sau, bà cũng không sợ.

Khi tôi đã yên vị trong tù thì ở nhà, từ mẹ, các anh chị (dâu, rể, trai, gái) đến các cháu của tôi, đều bị công an triệu tập, thẩm vấn. Suốt mấy tháng trời, các anh chị tôi không làm ăn gì được. Đang đi làm cũng bị công an gọi, đang ngủ cũng bị dựng dậy, lôi đi bất cứ lúc nào. Công an thậm chí còn rình mò, đứng đợi sẵn ở cổng trường, chờ mấy đứa cháu tôi tan học rồi chở chúng đến trụ sở công an tra hỏi.

Không chỉ thẩm vấn, hoạnh họe những điều vô lý, họ còn đe bắt thêm người này, nhốt thêm người kia nếu không chịu khai báo hay tố thêm tội cho tôi. Nghe người nhà kể lại các cuộc làm việc với công an, tôi vừa thương, vừa cảm động. Nhưng thương nhất, cảm phục nhất vẫn là mẹ tôi. Bà bị đưa vào căn phòng thẩm vấn của Cơ quan An ninh Điều tra, xung quanh là những viên công an mặt mũi bặm trợn, nắm quyền sinh sát đối với không biết bao nhiêu người dân vô tội, mẹ tôi vẫn giữ thái độ bình thản, không chút sợ sệt.

Bà tuyên bố: “Tôi có bảy đứa con. Tôi sẵn sàng hy sinh một đứa cho đất nước. Các anh bắt nó vào tù rồi, thích đánh thích giết thì cứ việc. Nếu nó chết, tự tay tôi sẽ chôn con mình. Hy sinh một đứa, tôi vẫn còn sáu đứa con khác. Tôi nói rõ ràng như thế cho các anh hiểu. Từ nay đừng làm phiền các con tôi nữa, để chúng làm ăn. Muốn gì, các anh cứ gặp tôi. Muốn bắt già này, cứ bắt. Đằng nào tôi cũng sống đủ rồi. Ngoài 70 tuổi chết được rồi”.

Sau lần ấy, không ai trong gia đình tôi bị lôi lên thẩm vấn nữa. Thi thoảng, công an gọi điện thoại cho anh trai tôi, nhưng lần nào cũng dặn kỹ “đừng cho bà biết là tụi em gọi điện nhé”.

Mẹ tôi đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió với những biến cố không dễ gì vượt qua. Bà đã chiến thắng, bằng chính sức lực của mình với sự khiêm nhường, đơn sơ nhưng cũng đầy cương cường, quyết liệt. Gia tài mà bà để lại cho con cháu, không phải tiền bạc hay tài sản gì đáng giá, mà là tình yêu thương, lòng tự hào của một con người sống thật với lẽ phải. Tôi tự hào là con của mẹ. Tự hào mình là người Việt Nam.

(7/03/2024)
Phạm Thanh Nghiên
-Sài Gòn Nhỏ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét