Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 27 tháng 4, 2023

Đường Tìm Tự Do - Đỗ Hữu Phương


Lời mở đầu: Sau 38 năm xa cách, tôi vừa liên lạc được với anh bạn cùng trường Luật ngày xưa-- anh NDT--chúng tôi có nhiều dịp nói chuyện với nhau và tôi được T. kể cho nghe về cuộc vượt biên thật gian nan nguy hiểm, trong cảnh chết đi, sống lại của gia đình anh. Và vì anh không thể kể cho từng người bạn nghe được, nên tôi xin phép anhcho tôi ghi chép lại và post lên diễn đàn để tất cả các anh chị em A-17 cùng đọc. Tôi đã được Anh T. đồng ý, và dĩ nhiên, bài viết cũng được anh T. duyệt qua trước khi tôi đưa lên diễn đàn. Cám ơn anh NDT.
<!>
Sau ngày 30-4-1975, T. cũng như những người đã từng làm việc cho Chính Quyền hay Quân Đội miền Nam, Việt Nam phải ra trình diện, rồi bị đưa đi lao động cực khổ trongcác trại tập trung mà họ gọi là “Trại Cải Tạo”. Nhưng thật ra, đó là những “trại tù tập thể”, họ gom hết tất cả những sĩ quan, các cấp lãnh đạo, quân dân, cán chính, những người làm việc cho Chính Quyền cũ vào các trại tù mà họ bảo là chỉ đi một tháng để cải tạo tư tưởng cho phù hợp với chế độ mới, nhưng mà biền biệt (8, 9, 10… năm) nơi thâm sâu xa thăm thẳm. Ở đây, tất cả các sĩ quan, thành phần cao cấp của chính quyền Miền Nam bị nhốt và lao động vất vả, đói, khát, tinh thần bị khủng bố, đương nhiên là sự chết chóc cũng xẩy ra cho thân phận những người trai miền Nam nước Việt thời bấy giờ…
Ra khỏi tù, T. không xin được việc làm tại bất cứ công sở nào, không có nghề nào dành cho những sĩ quan của chế độ cũ vừa rời khỏi trại tù học tập cả.

T. may mắn gặp lại người bạn cùng học Luật đang bán thuốc tây ở chợ trời tạiđường Nguyễn Huệ, anh bạn đã hướng dẫn T. vào nghề nầy.Từ đó cuộc sống của anh khá hơn, không còn đói khát như những ngày vừa ra tù. Và cũng nhờ nghề nghiệp bất đắc dĩ nầy đã dạy cho T. nhiều bài học về cuộc sống của một đất nước vừa được gọi là “Giải Phóng”.
T. có người anh ruột là anh NDH., vì anh H. không chịu ra trình diện đi tù học tập, nên anh phải trốn tránh. Hàng ngày, anh phải thay đổi nơi trú ngụ, dời sống lúc nào cũng lo lắng, vì có thể anh sẽ bị bắt bất cứ lúc nào, và cũng chẳng biết tương lai sẽ ra sao?

Năm 1978, có phong trào thanh lọc người Hoa ra khỏi Việt Nam. Ở Mỹ Tho, gia đình T. liên lạc được với một tổ chức vượt biên bán chính thức (vượt biên được sự đồng ý của Chính quyền). Nên gia đình T. tính chuyện vượt biên. Trước khi quyết định cuộc vượt biên nầy, T. có xuống Mỹ Tho để quan sát, được xem người ta đang đóng tàu tại Cù lao Phụng. T. còn nhớ số hiệu hai tàu đó là MT-501 và MT-503.
Không biết vì lý do gì mà gia đình T. không chọn tàu MT-501 mà chọn tàu MT-503. Có thể vì ông chủ tàu 503 người Hoa cũng là chỗ thân tình và có nhiều ân nghiã với gia đình T.
Giá cả cho mỗi đầu người là 12 lượng vàng. Cũng may, nhờ quen nên người chủ tàu đồng ý để anh em T. hoàn lại số vàng này sau khi đã được định cư yên ổn. Nhờ thế mà gia đình T. mới có cơ hội vượt biên trên chiếc tàu MT-503.
Kể từ hôm đó, lòng T. bắt đầu phấn khởi, anh mơ về một tương lai tươi sáng nơi xứ người và anh cũng không khỏi ngậm ngùi, buồn tiếc, vì biết mình sắp sửa vĩnh viễn rời xa cha mẹ, xa quê hương, xa rời nơi “chôn nhau cắt rún” của mình. Theo dự tính, tàu sẽ khởi hành vào cuối năm 1978. T. phải thay đổi lý lịch với một thẻ căn cước giả. Thẻ căncước có dấu ấn con rồng, màu xanh. Căn cước nầy được mua từ một người trong tổ chức vượt biên với giá một chỉ
vàng, (thời bấy giờ, nếu có tiền, ta có thể mua được tất cả mọi thứ.)
Thế là: chờ đợi, hồi hộp, lo lắng, vui mừng lẫn lộn, nghe tin tàu sẽ rời bến vào tháng 3, 1979. Nhưng cuối cùng không biết vì lý do gì, người chủ tàu dời ngày khởi hành vào tháng 5, 1979.

Buổi sáng trước khi lên đường, T. được mẹ cho ăn sáng với trứng chiên và bánh mì, anh cảm động, nhưng cũng thật buồn, vì đây là bữa ăn sáng cuối cùng, Thạnh sẽ không còn gặp Ba má nữa. T. ra bến xe miền Tây kiếm xe đò đi về Mỹ Tho. Muốn cho kịp giờ và cũng không muốn người quen bắt gặp nên T. phải mua vé chợ đen, (thời bấy giờ, muốn mua vé đi đâu cũng phải mua vé chợ đen chứ không dễ dàng như xưa). Xe đến Mỹ Tho vừa đúng 12:30 trưa. Theo giờ hẹn là 3:00 giờ chiều, vì thấy còn sớm nên T. thả bộ lang thang dọc theo bờ sông, qua Cầu Quay, ghé vào quán mì Phanh Ký (một tiệm mì nổi tiếng ở đây), gọi tô mì, uống thêm ly cà phê đá. Tô mì hôm nay ngon làm sao! Ngon hơn bao giờ hết, có lẽ đây là tô mì cuối cùng mà anh nghĩ rằng “mình sẽ
chẳng bao giờ còn trở lại nơi đây để ăn tô mì này nữa”. T. đến điểm hẹn tại vườn hoa Lạc Hồng lúc 2:30 thì gặp ông chủ tàu và vài người lạ mặt. Ông chủ tàu dắt T. và tất cả mọi người xuống một ghe nhỏ đưa qua sông đến Cù Lao Phụng (bên cạnh Cù Lao Rồng, nơi mà ông Đạo Dừa ngày xưa đã sống). Sau khi rời ghe lên bờ, T. gặp gia đình anh H.
Nhìn những người qua lại trên cù lao, yên tâm, không gặp ai quen cả. T. ngồi nghỉ chân, và cũng để lấy lại tinh thần sau chuyến di chuyển đầy lo âu trên đoạn đường từ nhà đến đây.
Đến 6:00 giờ chiều, chủ tàu thông báo cho tất cả mọi người chuẩn bị sẵn sàng, tàu sẽ rời bến lúc 10:00 giờ đêm. Khoảng 9:00 giờ tối thì chủ tàu lần lượt gọi tên từng người xuống tàu. Gia đình anh H. được gọi tên trước. T cũng
không quên tên mới của mình lúc ấy là TỪ XÚ HÁ, cái tên mà anh đã cố nhớ để không ngỡ ngàng khi được gọi. Đa số những người xuống tàu truớc thì chọn xuống dưới hầm tàu. Gia đình anh H. và T. xuống sau nên ở trên sân tàu. Nguời chủ tàu cũng đã chuẩn bị kỹ, phía trên có tấm nylon lớn phòng che nắng, mưa. Trên tàu có ước chừng khoảng 400 người chen chúc, ngồi san sát nhau, ém chặt như nêm.
Tàu từ từ rời bến trong nỗi buồn vui lẫn lộn của mọi người. Chủ tàu ra lệnh tắt hết đèn và cũng không được xài đèn pin. Hai bên bờ sông thì tối đen, không nhìn thấy gì cả, ngoài tiếng máy nổ và tiếng thì thầm chuyện trò, to nhỏ của bà con trên tàu. Phía trước tàu có một chiếc ghe nhỏ dẫn đường, có lẽ đó là tàu của chính quyền địa phương hướng dẫn tàu MT-503 ra khơi? Nhờ thế mà tàu chạy suốt đêm, ra tận cửa biển mà không thấy bị chận lại kiểm soát hay bắt bớ gì cả.

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, nhìn chung quanh, chỉ toàn một màu xanh mênh mông--Tàu đã ra biển--Con tàu to lớn như thế mà bây giờ lại quá nhỏ bé so với biển rộng bao la. Sóng biển vào buổi sáng thật êm ả, mặt nước phẳng lặng, tuyệt đẹp, thanh tịnh làm sao! Đúng như tên đã được người ta đặt cho là “Thái Bình Dương”. Nhìn trời nước mênh mang. T. thấy số phận mình sao mỏng manh, nhỏ bé quá! Anh chỉ mong cho biển êm, sóng lặng để mọi người được thoát đến bến an toàn, cầu xin ơn trên phù hộ cho cuộc hành trình vượt biển được suông sẻ. Lòng anh miên man trăm nỗi dày vò. Vừa lo sợ cho tương lai không biết sẽ ra sao? Nhưng cũng mang niềm hy vọng vào một ngày mai tươi sáng. Rồi nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ quê hương, không biết đến bao giờ mới gặp lại Mẹ Cha? Và anh lại nhớ đến tỉnh Mỹ Tho hiền hòa, nơi T. ra đời. Còn thành phố Sài gòn thương yêu nữa, nơi đây anh đã có biết bao nhiêu kỷ niệm của thời trai trẻ vừa mới lớn, với những con đường thơ mộng rợp lá me bay, và những chiều mưa Sài gòn hắt hiu nỗi nhớ. Không biết đến bao giờ anh mới có dịp cùng sống lại những kỷ niệm êm đềm thuở xưa nơi quê hương yêu dấu?!... Ôi, mất hết rồi! Sau một ngày ra khơi, T. thấy chung quanh chỉ toàn một màu xanh nước biển và thênh thang mây trời. Vì bồi hồi, lo lắng nên anh không thấy đói, chỉ uống chút nước (nước bị giới hạn tối đa, uống cầm chừng mà thôi). T. chọnngồi gần mũi tàu cho thoáng nhưng dễ bị say sóng. Nắng bắt đầu gắt lên, da bị sạm đen mặc dù phía trên có tấm nylon che. Cả nhà anh H. ngồi gần giữa sân tàu, tất cả đã thấm mệt nên nằm nhắm mắt suốt ngày. Màn đêm buông xuống, trên bong tàu gió thổi rất lạnh, mặc dù tàu chật chội mọi người nằm, ngồi sát nhau mà cơn lạnh vẫn thấm vào da thịt.
Sang ngày thứ hai và thứ ba, chiếc tàu vẫn nhẹ nhàng lướt sóng. Mặt biển vẫn bình yên, phẳng lặng, mọi người vui mừng đều nghĩ mình thật may mắn. Sang đến ngày thứ 4, đã có nhiều người già và trẻ em bắt đầu mệt, bịnh, sức khỏe yếu dần. Nhìn xa xa ngoài khơi T. thấy có nhiều chiếc tàu rất lớn chạy ngang và rồi vội vàng mất dạng. Có người ngất sỉu, nhưng ai nấy cũng đã mệt lả, nên không ai có thể lo cho họ được. Cùng lúc ấy, phía xa xa có một chiếc tàu chạy đến gần, những người trên tàu làm dấu hiệu cầu cứu (S.O.S), nhưng vô vọng, họ chẳng để ý gì đến chiếc tàu tị nạn đang lâm nguy. Lo sợ quá nên T. đến gặp ông chủ tàu, ông cho biết: Người tài công này không phải là người có kinh nghiệm lái tàu đi biển, anh ta chỉ quen chạy tầu trên sông mà thôi, cho nên tàu đi không đúng hướng, đã mấy ngày rồi mà chưa tới được bờ biển Mã Lai.“Trời ơi!.. Đã quá muộn rồi!” Thế là hơn 400 sinh mạng trên tàu đang trong tình trạng nguy hiểm, đành giao số mạng cho một người tài công không kinh nghiệm này sao!.

Đến trưa ngày thứ 5, có một chiếc tàu chở hàng thật lớn đi cùng hướng. Trên tàu có người làm dấu hiệu S.O.S., T thấy họ đáp lại bằng một tấm bảng màu trắng ghi chữ “FOLLOWING” màu đen. Có đông người trên chiếc tàu đó hướng về tàu ty nạn MT-503. Khi chỉ còn cách khoảng 500 mét, thì tàu của họ chạy chậm lại, tàu của T cố gắng chạy theo. Mọi người vô cùng mừng rỡ, cùng cám ơn Thượng Đế đã ra tay cứu giúp. Nhưng vì chiếc tàu vượt biên chạy quá chậm, và có lẽ chiếc tàu lớn kia chỉ hướng dẫn mình đi chứ không cứu vớt mình. Càng lâu khoảng cách càng xa, dần dần rồi chiếc tàu lớn…cũng mất dạng. Mọi người ngồi im lặng vì thất vọng. Khi màn đêm xuống thì chiếc tàu kia đã mất hút vào bóng đêm. Bây giờ trên tàu thiếu nước uống, nhiều người bịnh, trẻ em la khóc vì khát nước. Người lớn tuổi thì nói năng lảm nhảm…thật thảm thương. T. chợt nghĩ thoáng qua: Thế là số mạng đã an bày, chắc chắn nay mai thì tất cả mọi người trên tàu sẽ chết hết.
Đến ngày thứ 6 thì cảnh tượng càng bi đát hơn. T. đến gặp ông chủ tàu hỏi tin tức, nhưng không thấy ông ta đâu cả. Anh tài công thì kiệt sức nằm dài bên cạnh tay lái.
Trên tàu đã có người bất tỉnh. Một bà cụ chết, gia đình quăng xuống biển. Người trên tàu tranh dành nước uống đánh nhau. T. đang cầm lon nước trên tay, có người đề nghị đổi một lon vàng, nhưng T. từ chối vì giờ phút nầy là sự
sống còn của T. và gia đình anh H. đang cần từng giọtnước. Có người phát điên, tự lao xuống biển… Vài giờ sau,một đám mây đen kéo đến rồi mưa thật lớn, ai nấy tìm mọi cách để hứng những giọt nước mưa mà uống. Riêng T. phải dùng cái áo đang mặc hứng nước mưa rồi vắt áo lấy nước uống. Cơn mưa lại qúa nhanh nên không ai có thể hứng được đủ nước để uống. Nhưng cũng nhờ vài giọt nước mưa nên cũng đã cứu vớt được cảnh chết khát của những người trên tàu.
Vào đêm ngày thứ 6, khi màn đêm bao phủ khắp mặt biển. Ngồi trên bong tàu, T chợt nhìn thấy có một lằn ánh sáng chập chờn rồi mất. Rồi những ánh sáng đó từ từ xuất hiện rỏ ràng và gần hơn. Nhiều ánh đèn pha rọi qua lại sáng cả một vùng. Và rồi một chiếc tàu lớn xuất hiện, cố nhìn kỹ thì đây là một tàu đánh cá của người Thái Lan, trên tàu viết chữ Thái, có khoảng 20 người Thái qua lại trên tàu,
ở trần, nước da đen mặc Sarong. Trên tay họ cầm những con dao dài, chỉ có hai người cầm súng ngắn. Mọi người trên tàu thấy lo sợ hơn là mừng rỡ. Có tiếng thì thầm “Thôi rồi! Ta gặp bọn cướp biển rồi!”. Chiếc tàu Thái cặp sát vào tàu vượt biên. Hai người Thái dùng dây thừng để trèo qua tàu nhỏ và ra hiệu cho mọi người phải lên tàu của chúng theo thang lưới đã treo phiá sau tàu Thái. Sự hung dữ của họ làm cho mọi người sợ hãi.

Tàu vượt biên đang gặp bọn cướp biển Thái Lan. Mọingười lần lượt lên tàu Thái. Họ cho mọi người uống nước. Uống được ly nước thật mát ruột, T. nghĩ thầm: “mình chưa bao giờ được uống một lon nước ngon như vậy!” Mặc dù bụng anh thì đang lo sợ cho những cảnh hãi hùng mà bọn cướp biển sắp sửa dành cho đám người vượt biên xấu số này”.
Rồi chúng ra hiệu cho mọi người đi về phiá trước tàu, và lục soát từng người để lấy hết cả những gì có thể lấy: Hột xoàn, vàng, đồng hồ, cẩm thạch … tất cả được bỏ vào một thùng xăng rỗng. Những tên Thái khác, tay cầm dao đứng canh chừng dọc theo sàn tàu. Đến phiên T. bị lục soát thì chẳng có gì ngoài hai chỉ vàng mà giờ chót trước khi đi mẹ cho, anh đã dấu kỹ trong gấu áo lúc còn ở bến ghe cù lao Phụng, thế mà bọn Thái cũng tìm được. Lòng đau như cắt, nhưng chẳng còn cách nào hơn. Tuy hai chỉ vàng không nhiều lắm, nhưng đó là kỷ niệm cuối cùng của mẹ. T. liếc sang cái thùng xăng to lớn của bọn cướp biển, đã gần đầy những của cải mà chúng thu được. Sau khi lục soát xong, chúng ra dấu cho mọi người trở về tàu vượt biên.
Nhìn sang tàu vượt biên thì thấy tối thui, không ánh đèn, không tiếng máy nổ. Những người phía sau xô đẩy mạnh để trở về tàu mình cho nhanh. Mọi người trở về tàu của mình, trời tối đen, không có đèn, máy tàu không nổ nữa, nước từ từ tràn vào tàu, mọi người bắt đầu hỗn loạn. Có thể do bọn Thái trong khi lục soát tìm vàng, chúng đập phá các hóc để tìm vàng đã làm lủng thành tàu khiến nước tràn vào. Tiếng gào thét của hơn 400 người trên tàu thật khủng khiếp. Trên mặt biển mênh mông, tàu không nổ máy, lênh đênh như chiếc lá giữa giòng. Sóng biển đánh mạnh vào hông tàu, đong đưa contàu qua lại như chiếc võng. Ngay lúc đó, một cơn sóng thậtmạnh đánh ập tới, nước biển tạt cao đến tận mặt. Nước vào trong tàu càng nhiều, người trên tàu gào thét, la cứu inh ỏi, thật ghê sợ. Rồi tiếp theo, những đợt sóng mạnh hơn đẩy tay T. rời khỏi thành tàu và hất lên, một luồng nước mạnhtạt vào mặt, T. không còn thấy gì nữa…Đó là giây phút chót T. chia tay cả gia đình anh H. Chiếc tàu tị nạn từ từ đi vào lòng đại dương. T. nghe nhiều tiếng kêu cứu khóc than, vô cùng thảm thiết, nghĩ đến hai đứa cháu nhỏ dại, chắc chúng cũng đã bị cuốn trôi theo sóng biển. Còn vợ chồng anh H. thì sao? Chắc anh chị cũng bị chìm sâu rồi, vì không ai biết bơi cả.

Trong bóng đêm, T. cố gắng bơi xa dần đám đông đang trôi nổi trênmặt biển, T. bị một người nào đó nắm áo lôilại, T. cởi áo để thoát thân. Bấy giờ trên mình
anh không còn quần áo gì cả, T. phải lặn sâu xuống mới tránh được những người đang chết chìm níu kéo. Khi vượt được ra khỏi đám người ấy thì T. đã thấy quá mệt, T. trồi lên và thả trôi theo dòng nước… Mười phút sau, T. thấy trước mặt mình là một vật đen lớn, anh rán bơi lại gần thì nhận ra đó là chiếc tàu bị lật úp, mặc dù rất mệt, nhưng anh cố leo lên đáy tàu đang nhô lên để nằm trên đó nghỉ mệt. Chừng mươi phút sau, có một vật màu trắng đang nổi trên mặt nước, anh vói tay nắm lại, nhìn kỹ thì đó là một miếng vải lớn, bên trong có nhiều ngăn nhỏ chứa nhiều miếng foam (hóa ra là một cái phao tự
chế), mừng rỡ anh la lên “Trời cứu tôi rồi!”. T. nắm lấy cái phao tự chế nầy (có thể của chủ tàu mang theo nhưng không lấy kịp khi tàu chìm), va liền quấn cái phao đó chung quanh người, con tàu từ từ chìm sâu, và T. lao mình xuống nước. T. đã rời xa đám đông nhưng tai vẫn còn nghe những tiếng kêu la thất thanh, gào thét thảm thiết. Thôi thế là hết rồi! Ta đã mất tất cả, Anh mường tưởng đến những tiếng la ai oán của những người rơi vào lòng đại dương, mà trong đó có cả tiếng kêu cứu của gia đình người anh ruột của mình mà xót xa vô cùng! Cứ để mình thả trôi theo dòng nước và ngất đi lúc nào không hay…T. không biết thời gian mình bất tỉnh trên biển là bao lâu, chỉ đến khi anh có cảm giác, nóng trên đầu thì anh tỉnh lại. Biết mình còn sống. Nhìn chung quanh chẳng thấy gì, chỉ thấy bầu trời và mặt nước biển màu xanh. Hồi tưởng lại cảnh hãi hùng lúc tàu bị cướp biển, tàu chìm, tiếng la khóc cầu cứu của mọi người… nhìn lại chính mình? Không mảnh vải che thân, không cảm thấy lạnh, nhưng mấy đầu ngón tay thì móp méo. T. nghĩ có thể là sự khủng hoảng vừa qua đã làm cho anh không còn cảm giác! T. có ý định tự tử, nhưng nhớ đến anh chị và các cháu mình đã chết, T. cứ để mặc cho dòng nước quyết định, nếm thử vài giọt nước biển quá mặn, T. nhắm mắt không muốn suy nghĩ gì nữa…và rồi thiếp đi…

Cứ nửa mê, nửa tỉnh, mơ màng không biết bao lâu khi tỉnh lại, thì thấy mặt trời xế qua đầu. Bỗng nhiên có một lằn trắng dài. T. tỉnh giấc cố nhìn, mắt không rời vệt màu trắng đó. Vệt trắng đó ngày càng lớn dần, rồi một khối màu đen cũng hiện theo. Khi vết trắng đến gần thì thấy rõ chấm đen đó là chiếc tàu, còn lằn trắng đó là khói ở phía trên. Mừng quá, mong sao chiếc tàu chạy đến gần thấy mình mà cứu vớt dùm chăng? Sự mong chờ của T. quá lâu mà sức lực càng yếu, nhưng vẫn không thấy chiếc tàu chạy đến gần. Mệt quá, T. lại ngất đi lúc nào không hay… Rồi tựnhiên T. có cảm giác cả người mình ấm hẳn lên, mở mắt ra thì thấy một người nào đó đã mặc vào người anh một chiếc quần ngắn. Tỉnh lại, mới biết mình đã được cứu đưa lên tàu. Người ấy nói gì nhưng T. không hiểu. Tuy đã tỉnh táo trở lại, nhưng thân thể anh vẫn chưa nhúc nhích được, tay chân vẫn còn tê lạnh, bụng thì vừa đói vừa khát. Một lát sau có người mang đến cho 1 chén cháo. Ông ta nói với T. vài câu mà anh vẫn không hiểu, chỉ lặng thinh, bưng chén cháo húp một hơi là hết. Thật quá ngon!mT. nhận ra đây là chiếc tàu đánh cá của người Thái Lan. T. còn nhớ, mấy ngày trước đây, đám ngư phủ Thái đã là những tay cướp biển, nhưng bây giờ họ lại là ân nhân cứu mạng mình. T. còn được biết có khoảng mười người khác cùng đi trên chiếc tàu vượt biên với anh cũng được tàu nầy cứu sống!. Trong những người được cứu sống có ông chủ tàu và hai người con, còn 30 người khác trong gia đình ông ta đều đã chết dưới lòng biển sâu.
Như vậy trên chiếc tàu vượt biên hơn 400 người, chỉ có 11 người sống sót, còn tất cả đều chết, trong số đó có vợ chồng anh H. và hai đứa cháu 2 và 3 tuổi. Các thuỷ thủ nói chuyện với những người vừa được cứu lên (bằng tiếng Hoa), biết đây là chiếc tàu đánh cá của người Thái gốc Hoa nên họ có lòng nhân đạo hơn. Trong lúc tàu đánh cá của họ đang rải lưới theo luồng nước biển (vì ngoài khơi có những luồng nước chảy mạnh, cá và một số sinh vật khác trôi theo dòng nước)… trong số đó có những người bị đắm tàu cũng trôi theo dòng nước…
Thuyền trưởng cứu người đầu tiên vào buổi trưa…và T. là người cuối cùng được cứu vào buổi chiều, trước khi dòng nước đổi chiều và tàu cũng sẽ di chuyễn đi nơi khác. T. thầm nguyện: “thật may mắn lắm, xin cám ơn Trời Phật,
cám ơn những người đã cứu tôi”. Tính lại từ lúc tàu chìm cho đến khi được vớt lên là hai ngày và một đêm. T không hiểu tại sao mình còn sống được? Đói, khát, kiệt sức…và đôi lúc tuyệt vọng, đã uống
nước biển để chết cho yên, nhưng không hiểu tại sao vẫn còng sống Thật là một phép lạ! Đôi lúc T. tự nghĩ chắc là linh hồn anh H. linh thiêng đã phù hộ giúp cho đứa em này được sống sót?
Theo thuyền trưởng nói với những người Hoa trên tàu, thì mọi người phải đi theo tàu đánh cá khoảng một tuần, vì số thu hoạch cá chưa đầy hầm tàu, không đủ chi phí cho một chuyến đi. T. và những người khác được tạm trú trên sân tàu (hai bên của phòng lái), mỗi ngày được ăn cháo hoặc cơm với cá do các thuỷ thủ nấu. Mỗi ngày T. được xem họ giăng lưới và kéo lưới thật vất vả. Khi lưới được kéo lên, họ chỉ lấy những cá và mực lớn còn những con nhỏ họ thả lại xuống biển. Một thuỷ thủ đã dạy cho T. nướng mực trên ống khói tàu vài phút rồi ăn ngay, cũng ngon lắm mà lại thật thú vị…Ban ngày thì nóng bức, đêm xuống lại lạnh vô cùng làm T. liên tưởng thời gian hơn hai ngày trôi lênh
đênh trên biển, vậy mà không hiểu sao đã chịu đựng nổi được cơn lạnh buốt vào ban đêm ấy.

Đúng là số mạng do Trời định…
Đến trưa ngày thứ bảy, người thuyền trưởng thông báo: sẽ thâu hồi lưới và đưa người lên bờ. Họ là những tàu đánh cá người Thái nên họ không thể đưa người Việt vào đất Thái Lan, nhưng họ sẽ đưa mọi người vào vùng bờ biển của Mã lai (cạnh biên giới Thái). Đến nửa đêm, trời tối đen, T. nhìn thấy những chấm đen nhỏ, có thể đây là những đảo hay những làng hẻo lánh ven biển. Chiếc tàu chạy chậm lại, tiếng máy nổ nhỏ hơn, đèn được tắt hết, vì họ sợ Mã Lai phát hiện ra tàu của họ. Thuyền trưởng nói với mọi người, tàu họ không vào sát bờ được, họ cho chúng tôi vài cái thùng nylon độ 20 lít để làm phao. Thuyền trưởng và tất cả thuỷ thủ đến chào từ biệt mọi người, không khí chia tay thật cảm động. T không biết nói sao cho họ hiểu lòng cám ơn của anh, và trong thâm tâm, anh cầu nguyện ơn Trên phù hộ cho những ân nhân đã cứu mạng. T. cùng những người khác lặng lẽ xuống tàu để trở lại biển, vài người cùng ôm một cái phao, cố bơi vào bờ. Khi cả nhóm người Việt lên được bãi biển rồi thì chỉ vài phút sau có một nhóm lính mặc đồ rằn ri với súng M16 trên tay nhắm ra khơi bắn xối xả vào chiếc tàu cứu người vừa rời khỏi. Thoảng trong bóng đêm nghe tiếng máy tàu rú mạnh khủng khiếp, dường như tàu cố gắng chạy nhanh ra khỏivùng lãnh hải của xứ Mã lai. Mọi người đều cầu nguyệncho chiếc tàu rời khỏi bình yên.

Rồi những người lính dẫn mọi người đến một mảnh đất nhỏ, chung quanh có hàng rào kẽm gai và giam giữ tại đó. Sáng hôm sau họ đem đến vài chục lon đồ hộp màu xanh, có thể là lương thực của quân đội. Mọi người chia nhau ăn
uống thật ngon lành. Suốt cả ngày ai nấy đều choáng váng, lao chao, có lẽ vì sự thay đổi giữa biển và đất liền. Hai ngày sau họ dẫn cả bọn đi bộ khoảng hai giờ ra đến đường nhựa, ở đó có xe trắng sơn chữ U.N. bên hông.
Chiếc xe nầy đưa T. đến một trại tạm cư nhỏ. Vào trại, gặp người Việt Nam làm trong trại đưa cho một mẫu giấy in sẵn, T. ghi đúng tên thật của mình là NĐT. Họ đưa T. đến một dãy nhà còn trống và bảo đây là nơi tạm trú.Thế là kể từ giờ phút này, T. tạm có một cuộc sống mới, bắt đầu từ trại tị nạn. Vừa vào cửa trại, T. thấy bên phải là văn phòng, kế là giếng nước, phía trước là bờ sông, phiá trái là các dãy nhà tole chứa đầy người tị nạn. Sau khi làm giấy nhập trại, T. cùng những người khác được đưa đến dãy nhà còn trống. Sau đó, mỗi người được Cao Ủy Tị Nạn phát cho một bao thực phẩm gồm: Gạo, đường, cá, thịt hộp, trà, cà phê… đói quá, T. tạm thời ăn mấy cái bánh biscuit, uống một bụng nước giếng no nê, xong đi tìm 1 miếng carton làm chiếu ngủ một giấc ngon lành. Trong giấc ngủ, T. mơ thấy mình được đưa đến một vùng đất mới tuyệt vời để xây dựng cuộc đời mới…và cũng không khỏi bùi ngùi xót xa, chợt nhớ đến anh chị H. cùng hai cháu đã vùi thân dưới đáy biển. Hai tháng trong trại tị nạn, tuy sống cực khổ, nhưng sung sướng hơn là những ngày trôi dạt trên biển.

Một hôm tình cờ T. thấy có rất nhiều ghe đi biển vớimàu sắc lòe loẹt của người Mã Lai và những chiếc ghekhác của người Việt Nam được neo dọc trên bến ghe. Vàingày sau thì nhận được tin là tất cả những người trong trạisẽ di chuyễn đến trại tị nạn Paula Bidong vào sáng mai vìtrại Kota Bharu sẽ đóng cửa. Mọi người đều vui vẻ, ai cũnghy vọng là đổi đến trại lớn thì sẽ có đời sống khá hơn.Đêm hôm đó, mọi người thức thật khuya để thu xếp đồđạc. Sáng 6 giờ, nhân viên và lính của Mã lai hướng dẫntừng gia đình xuống các ghe nhỏ đang neo tại bờ. Với hơn3 ngàn người, nên việc di chuyển xuống tất cả các chiếc tàunhỏ đến 2 giờ chiều mới xong.Chiếc ghe cuối cùng mà T. bước chân lên là chiếc ghechở cát của người Việt nam trước đây. Chiếc ghe nầy trôn không đẹp lắm nên ít người chịu lên ghe này thành ra số người trên ghe chỉ có khoảng 40 người trong khi những chiếc ghe khác thì đông gấp đôi. Tổng cộng khoảng 40 ghe, được 3 tàu hải quân Mã Lai kéo ra biển. Ra khơi thì tàu hải quân chạy nhanh hơn nên làm cho nhiều người say sóng, ói mửa…Tàu chạy suốt đêm cho đến sáng hôm sau vẫn còn tiếp tục chạy nhanh. T. có cảm giác khác lạ, cố gắng suy nghĩ xem tàu có đi đúng hướng không? Làm sao mà từ đảo nầy đến đảo kia đi cả ngày chưa tới?. tự hỏi, đúng ra là tàu
phải chạy về hướng Đông Nam, nhưng sao lại chạy về hướng Đông Bắc?. Đến 3 giờ chiều, tàu hải quân Mã Lai cắt đứt dây kéo rồi chạy nhanh đi xa, mất hút. “Chúng nó bỏ mình rồi!”...Và rồi cũng giống như lần bị cướp biểntrước, chiếc tàu lắc lư trên biển cả, những tiếng la hét thảm thiết bắt đầuvang lên. Chiều đến những cơn sóng bắt đầu đánh mạnh, các tàu trôi dạt đập vào nhau, có chiếc đã chìm, rồi cảnh tượng kêu la cầu cứu inh ỏi vang lên…có người đã chết!. Chiếc ghe của T. nhờ ít người hơn nên không có cảnh lao chao, mọi người bình tĩnh hơn, họ lật đật cắt đứt dây để tách chiếc tàu của mình riêng ra. Sau vài cơn sóng, ghe của T. đã rời xa những ghe khác vài trăm mét, nhiều tàu đã chìm, và chắc chắn đã có nhiều người chết.
Tàu của T. là loại ghe bầu, có đáy sâu, ít người trên tàu,nên chịu đựng nhiều cơn sóng thổi to và mạnh. Khoảnh khắc sau thì mặt biển bình yên. Nhưng tàu thì hư, máy không nổ, không biết hướng đi. Mọi người cùng nhau dùng cái mền cột vào sau ghe làm thành cái buồm, buồm sẽ theo gió chạy nhanh hơn, và ghe cứ thế mà theo chiều gió. Mọi người chỉ biết phó thác số mạng cho Trời mà thôi.
Cứ mỗi ngày trôi qua, T. lại gạch trên thành tàu một gạch. Bốn ngày sau đó, một chiếc tàu đánh cá Thái Lan loại nhỏ, ép sát vào ghe của T, rồi hai người Thái trên tay cầm dao dài, nhảy lên tàu ra lệnh mọi người nằm xuống để chúng lục soát. Tất cả người trên tàu đều mệt, nằm lả người, tha hồ cho chúng tung hoành. Sau đó, họ chuyển thùng cháo qua cho mọi người ăn, ăn xong mọi người tỉnh táo trở lại. Bọn Thái dồn đàn ông lên mũi tàu, còn đàn bà
thì xuống dưới khoang tàu. Hai tên Thái thì ở trên tàu tiếp tục lục soát, còn 6 tên khác thì ở dưới khoan tàu. Và rồi…chúng hãm hiếp..!!! T. phải chứng kiến cảnh thật đau lòng của những người VN, đã phải chịu bao nhiêu khổ ải, nhục nhã để đi tìm tự do. Sau trận cướp bóc, bọn cướp về tàu họ và phóng tàu chạy xa.
Chiếc ghe của T. tiếp tục trôi theo chiều gió, mọi người nằm yên vì đã qúa mệt. Trên tàu bây giờ không còn nước để uống, khát quá, T. vớt rong biển ăn cho đỡ đói và khát. Mỗi ngày ăn 4, 5 lần rong biển để sinh tồn. Sau mấy ngày không ăn, đã có vài người phát điên, nói lảm nhảm. Có một thanh niên vì không chịu đựng nổi, anh ta đã tự lao mình xuống biển. Từ đó, mỗi ngày ít nhất có một ghe cướp Thái Lan đến với những hành động tàn bạo như nhau: cướp bóc, hãm hiếp…nhưng mỗi tàu sau khi cướp bóc xong đều để lại ít nước uống. Ngày ngày những hành động nầy cứ tái diễn, không ai còn sức mà la hét, than khóc gì nữa…chịu đựng và chịu đựng!. Cướp đến rồi cướp đi. Đến ngày thứ 10, trên ghe đã có 5 người chết, dĩ nhiên thả xuống biển. Chiếc ghe trôi theo chiều gió thật chậm, nhưng nhìn lạinhững lằn gạch ngang, T. đếm là 20 ngày rồi. Giờ nầy T. không biết trên tàu còn được bao nhiêu người, và ai còn, aimất vì mọi người kiệt sức nằm la liệt. T thấy chính mìnhcũng đã mệt, không biết sức lực còn chịu đựng được baonhiêu ngày nữa? Cũng may tinh thần thì vẫn còn tỉnh táo. Mấy ngày nay mặt biển lặng yên, cướp biển không còn. Nước không có để uống, đến độ ai cũng mong cho gặp cướp biển, nó làm gì cũng được, ít ra chúng còn cho vài chục lít nước uống, bằng không chẳng bao lâu mọi người trên tàu sẽ chết hết. Thật trớ trêu! Ngày qua ngày, biển vẫn bình yên, những người trên tàu thì đều quá mệt mỏi, không ai còn sức để cựa quậy nữa.
Nhin lại những lằn gạch trên thành tàu, là 28 gạch, tức 28 ngày chiếc ghe buông trôi theo dòng nước. Sáng sớm ngày thứ 29, vì trời còn tối, nhưng T. nghe có tiếng động cơ vọng lại từ xa. Khoảng 1/2 giờ sau, thì tiếng động cơ càng lớn dần, cố gắng nghe có tiếng nói rất rõ hai tiếng: “Ai đó”. Mọi người trên ghe nhốn nháo mừng rở la lên cầu cứu. Riêng T. lo lắng và nghĩ sao lại là tiếng VN?!!, Ghe của người Việt?!! Hay là chiếc tàu đã trôi trở về bờ biển VN?!!. “Chết rồi!...trở lại VN”.
Rồi một ghe đánh cá người Việt áp sát ghe, họ nói: “…. đây là vùng biển của đảo Phú Qúy, cách bờ biển Phan Thiết khoảng 250 Km”. Họ cho tàu của T. nước uống thức ăn và chăm sóc những người bị bất tỉnh. Mọi người trên tàu
rất cảm động tấm lòng tốt của những người cùng nòi giống Việt. Nhưng khoảng một giờ sau thì ghe Công an đến áp giải mọi người về đảo Phú Qúy, tất cả được giam tại đó. Hôm sau tàu đưa mọi người về Phan Thiết. Sau khi vừa đặt chân lên bờ thì T. được hướng dẫn thẳng đến nhà giam dành cho những người vượt biên bất hợp pháp!.
Sau một thời gian ở tù, T. trốn trại. Về Sàigòn, trở lại chợ trời buôn bán và có cuộc sống bình thường. Đến năm 1984, T. được chị ruột bảo lãnh đến Canada. Bạn bè xin thắp nén hương dâng lên để tưởng nhớ đến anh chị H. và các cháu. Cầu xin hương linh anh chị và các cháu yên vui, thanh thản nơi phương xa và cũng kính nguyện hương linh những người đã chìm sâu trong lòng biển trong cuộc vượt biên đi tìm hai chữ TỰ DO được tiêu sinh, tịnh độ ở một nơi thanh tịnh đầy tình thương và tình người....... Chúc anh NDT. cùng cháu luôn luôn được dồi dào sức khoẻ…

ĐỖ HỮU PHƯƠNG (California, USA)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét