Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2023

Hôm Nay, Tưởng Niệm Ngày Sài Gòn Trong Cơn Hấp Hối, 29 Tháng Tư! - Lê Văn Hải


Tưởng Niệm Bốn Mươi Tám Tháng Tư Đen! Cho Dù Đã Gần Nửa Thế Kỷ! Nhưng Ngày Nào Quê Hương Còn Đảng CS Độc Tài, Gian Ác Ngự Trị, Tháng Tư Đen Vẫn Còn Là Một Nhắc Nhở Niềm Thương Đau Cần Thiết! Để Giữ Niềm Tin Tranh Đấu Để VN Có Dân Chủ Tự Do! Tháng Tư 75! Đối với những người Việt Tị Nạn CS, thì đây là một thời điểm rất quan trọng, để tưởng niệm những anh hùng đã tuẫn tiết ngay trong biến cố 30 Tháng Tư, cũng để tưởng niệm các đồng bào đã tử nạn trên đường đi tìm tự do, và cũng để nhìn lại con đường đấu tranh đã qua.
<!>
Bốn mươi tám năm qua, tập thể người Việt tị nạn cộng sản đều ghi nhớ ngày đen tối này, đó là ngày đau thương của cả dân tộc, ngày đánh dấu hàng triệu đồng bào bỏ nước ra đi, và cũng là ngày để chúng ta tưởng nhớ sự hy sinh, tử tiết, oai hùng của quân, dân, cán, chính VNCH. Các gương tiết tháo “thà chết chứ không hàng giặc” của các vị ấy, đã để cho thế hệ đi sau hiểu được giá trị của sự đấu tranh cho lý tưởng tự do như thế nào. Nên bốn mươi tám năm qua, cộng đồng người Việt khắp nơi, vẫn giữ được căn cứ, căn cước tị nạn tại xứ người. “Quốc gia hưng thịnh, tùy thuộc vào người dân có lòng với đất nước.” Nếu một ngày chúng ta vẫn còn ý chí tranh đấu, thì ngày đó, chúng ta vẫn có quyền hy vọng, thấy đất nước Việt Nam sẽ có tự do, dân chủ và nhân quyền trong tương lai.

Ngay bây giờ, nếu chúng ta không làm gì, trong tương lai, đất nước của chúng ta sẽ mất dần về tay Tàu Cộng. Qua tập đoàn bán nước “còn Đảng còn mình!”

Lịch sử Việt Nam chứng minh, Việt Nam không thiếu anh hùng, và tương lai Việt Nam, không thể để Trung Cộng xâm chiếm. Cùng nhau trong và ngoài nước, cùng đứng lên lật đổ chế độ bạo tàn, giữ lấy quê hương. Chúng ta tin tưởng như vậy. Tương lai Việt Nam sẽ tươi sáng. Bình minh, nắng ấm lại trở về trên đất Mẹ!

Nên ngày nào còn CS ngự trị, Tháng Tư Đen vẫn còn là một nhắc nhở cần thiết, cho công cuộc đấu tranh dân chủ, đòi lại tự do cho người dân Việt Nam.

Mong lắm thay.

Bằng giây phút này 48 năm về trước!

-Cả đất nước Việt Nam sắp rơi vào tay Cộng Sản, 30 tháng 4 năm 1975, mãi mãi là vết thương đau đớn trong lòng hàng triệu người dân trong nước và ngoài nước.

“Bên chiến thắng” là phe ác, chỉ biết quyền lợi của mình, của Đảng, gần nửa thế kỷ, đã đưa dân tộc Việt xuống tận đáy bùn đen, và còn có nguy cơ mất nước vào tay ngoại bang.

Ngày nào khi quê hương chưa có tự do dân chủ, ngày ấy, vẫn còn là Tháng Tư đau thương! Người Việt vẫn còn trách nhiệm đấu tranh để quê hương chóng có thay đổi, để tương lai Việt Nam được tươi sáng hơn, sánh vai với những quốc gia văn minh trên thế giới hiện nay.

Ngày đó, bình minh lại trở về trên quê hương yêu dấu!


Không Bao Giờ Quên! 30/4 Ngày Đen Tối Nhất Lịch Sử VNCH!


*Ngày 28-04-1975

– Tổng thống Trần Văn Hương lên nắm chính quyền quốc gia Việt Nam được bảy ngày (7) thì tuyên bố rút lui. Theo yêu cầu của Lưỡng viện Quốc hội Việt Nam Cộng-Hoà, cụ Trần Văn Hương sửa “Hiến pháp” và “hiến dâng” chức tổng thống không dân cử cho Đại tướng Dương Văn Minh. Chả hiểu sao cụ Hương tụt xuống, cho ông Dương Văn Minh trồi lên nắm chính quyền nhanh như chớp!? Việt Nam như quả bóng tròn, khi thì đá dưới gót chân, khi đội đầu, bị đá qua đá lại rồi bị “sút” bóng lăn xuống vũng bùn. Một chính phủ sắp đến ngày diệt vong rồi hay sao, mà suy tàn thê thảm đến độ xót xa!

Lúc nầy Tổng thống Dương Văn Minh nói rất hùng hồn:

“Không bao giờ đưa miền Nam Việt Nam cho Việt cộng. Làm gì bây giờ? Chúng ta cần ngồi lại thân thiện bên nhau và chia sẻ mọi quyền lực . Cần một lòng đoàn kết vì nước vì dân . Thì toàn dân và toàn quân sẽ đứng vững như kiềng ba chân. Miền Nam Việt Nam sẽ không bị sụp đỗ toàn diện đâu.”


*Ngày 29-04-1975

– Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất những người Mỹ cuối cùng ra khỏi đất nước Việt Nam. Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, Cát Lái, Cầu Sông Buông, Long Bình, Biên Hoà, Phú Lợi, Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương, Tân Uyên, Lái thiêu, Gò Vấp, Hướng Tây Bắc Đồng Dù, Củ Chi, Hướng Tây Tây Nam Hậu Nghĩa, Tân Túc, Tân Hoà, Phú Lâm… lần lượt bị chiến tranh gian ác xâm lược. Thấy mất thật rồi!

Tin tức mỗi ngày mỗi giờ một xấu hẳn đi. Cho đến ngày hãi hùng. Ngày đớn hèn bi thảm. Ngày tối đen hắc ám nhất lịch sử Việt Nam. Ngày đánh dấu trầm uất, thống hận:

Thế là trong thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen sợ hãi, càng tăng thêm nhốn nháo, xôn xao, xớn rớn hãi hùng hơn. Sài Gòn chìm trong biển tình đau thương tràn ngập mịt mùng. Sài Gòn như rắn mất đầu, người người xớn rớn ồn ào như núi lở, như động đất, như triều cường sóng thần vùi dập. Sài Gòn đã mất đi vẻ hào nhoáng thanh lịch sang trọng xa hoa của hòn ngọc viễn đông xưa. Thành phố giờ đây ồn ào náo nhiệt hỗn loạn, bụi bặm và rác rưởi ụ từng đống to tướng. Sài Gòn càng hỗn loạn, hoang mang lo sợ bùng lên dữ dội.

Nhất là những gia đình giàu sang quyền quý, ở Sài Gòn và cư dân gốc Trung Hoa đang sinh sống ở Chợ Lớn hãi hùng huyên náo loạn cả lên. Thuở xa xưa, người Hoa có quốc tịch Anh, được người Pháp (đang cai trị nước Việt ta lúc bấy giờ), cho phép người Hoa từ Singapore nhập cư vào Việt Nam. Họ giàu xụ! Có tiền rừng bạc bể, nên độc chiếm thị trường kinh tế, thương mại, sầm uất ở một giang sơn Chợ Lớn!

Hết rồi vẻ sạch sẽ thanh cao rộng rãi trên những phố Catina, đại lộ sang trọng Thống Nhất, con đường Lê Văn Duyệt. Trần Hưng Đạo. Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, vân vân… thậm chí cả con đường Duy Tân "cây dài bóng mát" thuở nào, nay cũng có từng tốp mười tốp hai ba mươi người tụ tập, dọc theo con đường nên thơ nầy, tới sau lưng nhà thờ Đức Bà. Họ lo lắng, bồn chồn xôn xao, hốc hác, băn khoăn đứng ngồi không yên, kể từ khi phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích. Sài Gòn nóng như một hoả lò. Càng ghê rợn hơn, tin từ đài phát thanh Sài Gòn loan báo kể từ giờ phút nầy: Thiết quân luật 24/24. Tình hình thủ đô Sài Gòn vắng lặng như tờ, không giống một thành phố chết thì là gì!?


*Ngày 30 tháng 4 năm 1975.

- 8 giờ sáng ngày 30-4-1975 - Sáng sớm tinh mơ, Tổng thống Dương Văn Minh lên Truyền thanh Truyền hình, ông ra lệnh cho các tuyến phòng thủ của Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống không được nổ súng.

- 9 giờ sáng ngày 30-4-1975 - Tổng thống Dương Văn Minh đọc diễn văn trên đài Truyền thanh: “Yêu cầu Toà Đại sứ Mỹ và văn phòng tùy viên DAO Hoa Kỳ, phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức!”

- 10 giờ ngày 30-4-1975: Tổng-thống Dương Văn Minh leo lên làm Tổng thống được ba ngày, ông liền “mở cửa khẩu” kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng Hoà:

- “Ở đâu, hãy giữ nguyên vị trí ở đó.”

- “Ngưng chiến. Chờ bàn giao chính quyền miền Nam Việt Nam: cho lực lượng mặt trận giải phóng miền Nam vào chiếm.”

- “Chuẩn bị giao nạp vũ khí cho đối phương.”

– Chao ôi! Sụp đổ toàn diện cả một chế độ. Bàng hoàng cả một dân tộc Việt Nam, chiến tranh hai miền Nam Bắc đưa con người bải hoải lết tới đường cùng cuối bờ vực sâu.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 – Thật hắc ám. Khi 15 giờ chiều, Trịnh Công Sơn hát lui hát tới bài “Nối Vòng Tay Lớn,” không có nhạc đệm trên đài phát thanh Sài Gòn. Không những là ngày uất hận “nối vòng tang lớn,” mà còn là ngày co giật từng cơn run kinh phong nhăn nhúm rúm ró teo tóp lại.

Quân Bắc Việt được sự hỗ trợ tối đa của Nga và Tàu cộng cung cấp đầy đủ đạn dược, súng ống và xe tăng. Trong khi miền Nam Việt Nam bị Mỹ hứa lèo hứa cuội, rồi trở mặt phản bội, lãnh đạm bỏ rơi. Mỹ từ chối hết mọi thứ, kể cả chính phủ miền Nam chỉ xin chi viện 300 triệu đồng. Cũng không! Toàn Quân miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải tự anh hùng oai dũng kiên cường chiến đấu, quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng, trong sự cô độc, vô cùng đắng cay chua xót và tuyệt vọng dường bao!!! Những Người Lính dũng cảm ấy chưa hề buông súng bỏ cuộc. Họ không bao giờ phản bội dân tộc và cương quyết ở lại giữ gìn quê hương. Cho đến một ngày thứ Tư: 30-04-1975 họ phải cúi đầu bật khóc; vì buộc lòng phải tuân theo thượng lệnh .

Ngày 30 tháng 4 đen tối hắc ám năm 1975 . Đời sống ấy phơi bày cuốn phim cay nghiệt, có cảnh tượng kém thanh lịch, bóc trần những điều quá thật, làm tan nát đời nhau. Chẳng bao giờ xóa nhòa, tàn phai trong ký ức mọi người. Tan hoang kinh khủng. Đau đớn tột độ!

“Hạnh phúc Hòa Bình” đến, vội vã chợt đi. Giật theo tấm áo đơn bạc. Lộ ra quá khứ trần trụi. Hiện tại đọa đày, tương lai đen tối mịt mù; vô cùng cay đắng!!!

"... Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường."

(Bà Huyện Thanh Quan)

Trần Văn Giang
Orange County, Tháng 4 năm 2023


Lần đầu tiên một thống đốc bang ở Mỹ ra tuyên bố tưởng niệm sự kiện 30/4!


Thống đốc bang Michigan Gretchen Whitmer.

-Thống đốc bang Michigan Gretchen Whitmer vừa ra một tuyên bố nhân dịp đánh dấu 48 năm ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam, 30/4, gọi đó là “Tháng 4 Đen”, trong nỗ lực nâng cao nhận thức của cộng đồng về sự kiện quan trọng này, nhất là cho thế hệ trẻ.

Dường như đây là lần đầu tiên một thống đốc bang ở Mỹ ra tuyên bố tưởng niệm sự kiện này trên toàn bang. Các lễ tưởng niệm 30/4 trước đây ở Mỹ, nơi có cộng đồng người Việt hải ngoại lớn nhất, chỉ dừng tại ở cấp thành phố hoặc khu vực.

Trong một tuyên bố đăng trên trang web chính thức, nữ Thống đốc Gretchen Whitmer cho biết sự kiện này đánh dấu 48 năm ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam 30/4/1975, ghi nhớ “một thảm kịch đầy đau khổ và mất mát sinh mạng” của hơn 58.000 người Mỹ, 275.000 người Việt và người Đông Nam Á.

Bà Whitmer, 52 tuổi, một luật sư sinh ra ở Michigan và trở thành thống đốc thứ 49 của bang này từ năm 2019, nhắc lại sự kiện lịch sử di dân sau khi Sài Gòn sụp đổ: “Bắt đầu từ năm 1975, và kéo dài đến giữa những năm 1990, nhiều làn sóng người tị nạn Việt Nam bắt đầu rời Việt Nam; gần 800.000 người đã liều mạng trên những chiếc thuyền nhỏ, nguy hiểm để đến các trại tái định cư ở Hong Kong, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Philippines trước khi cuối cùng được tái định cư tại Hoa Kỳ”.

Với việc cộng đồng Việt Nam lớn mạnh ở khắp nước Mỹ và tại Michigan, nơi có 25.000 người Việt đang sinh sống, đông nhất là tại Quận Oakland và khu vực phía tây Michigan, sự kiện này được xem là có ý nghĩa quan trọng.

“Chúng ta phải dạy cho con cháu chúng ta và các thế hệ tương lai những bài học quan trọng từ Chiến tranh Việt Nam, kể cả hoàn cảnh của những người tị nạn Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc, xem đó là một minh chứng mạnh mẽ về các giá trị của tự do và dân chủ”, bà Whitmer cho biết.

Bộ Ngoại giao Việt Nam không phản hồi ngay yêu cầu bình luận của VOA về tuyên bố này của Thống đốc Whitmer.


(Hình: Thượng Nghị sỹ Stephanie Chang trao Nghị quyết về tuần lễ kỷ niệm 30/4 cho ông Đinh Thái Hòa.)

Cộng đồng người Việt tại Michigan, nhất là những người tị nạn và con cháu của họ, bày tỏ cảm xúc vui mừng trước tuyên bố của Thống đốc bang.

Hôm 27/4, ông Đinh Thái Hòa, Chủ tịch Cộng đồng Người Việt Quốc gia Michigan, nói với VOA rằng cộng đồng xem tuyên bố của Thống đốc Whitmer như một “món quà tinh thần” có ý nghĩa:

“Tôi rất vinh dự, hân hạnh được nhận lãnh một món quà tinh thần thật vô giá cho cộng đồng người Việt ở Michigan nói riêng, và cho tất cả cộng đồng người Việt trên toàn nước Mỹ và tất cả mọi nơi nói chung.

“Thống đốc Michigan có nhiều chương trình cho người Á Đông, trong đó có người Việt. Thống đốc Michigan luôn chú trọng vào những cộng đồng thiểu số Á Đông”.

“Các em sinh ra ở bên Mỹ không biết về cuộc chiến Việt Nam. Bà Thống đốc nhắn nhủ chúng ta nên chỉ dẫn, dạy cho con cháu của chúng ta về lịch sử của Việt Nam để con cháu chúng ta biết được những khó khăn trên đường đi tìm tự do của tất cả các đấng làm cha, mẹ và sự hy sinh thật là quý giá của các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa về lý tưởng tự do”, ông Hòa cho biết thêm.


Nghị quyết của các Thượng nghị sỹ bang Michigan về ngày 30/4.

Cũng trong dịp này, hôm 26/4, bốn Thượng Nghĩ sỹ bang Michigan bao gồm Stephanie Chang, Rosemary Bayer, Erika Geiss và Sylvia Santana cũng lần đầu tiên ra một nghị quyết kỷ niệm sự kiện 30/4 kéo dài một tuần từ ngày 23 đến 30 tháng 4/2023 với nội dung tương tự.


(Hình: Tuyên bố của Thống đốc Michigan về ngày 30/4.)

Nghị quyết số 36 của các Thượng nghị sĩ viết: “Chúng tôi công nhận thời khắc đặc biệt này để người dân Michigan tôn vinh thảm kịch đau khổ và sự mất mát của vô số sinh mạng trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, đồng thời tỏ lòng thành kính đối với những người đã hy sinh vì nhân quyền và tự do cho người dân Việt Nam”.


Một Trong Hàng Ngàn Câu Chuyện Thương Tâm Sau Ngày “Giải Phóng!”

(Duy Xuyên)


-Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước. Kính mời quý vị và quý bạn đọc bài viết về Nghĩa Quân Nguyễn Văn Đề Tôi Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá. Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê. Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ đơn thuần như thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.

Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.

Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi.

Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con cá chép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.

Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.

Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.

Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một” (Carbin M1) là ‘người tình’ đi theo tôi trong suốt quãng đời lính tráng này.

Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.

Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển từ địa điểm này đến địa hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan sát theo dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.

Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.

Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.

Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn khai hỏa đầu tiên của anh ta.

Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên cho đám du kích.

Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân anh ta nhận xác về chôn cất.

Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên ‘thám báo’ của chúng tôi.

Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân.Vì thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã.

Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã, chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xã.

Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:

– Đặt xác nó tại đây đi!

Anh bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.

Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:

– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi là trời!”

Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích cặn kẽ cho bà ấy.

Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập trung lao động khổ sai.

Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…

Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người Nghĩa Quân đã bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!

Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là Nghĩa Quân Viên.

Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:

– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?

Có người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:

– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?

Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:

– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!

Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.


Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng phòng, cuộc trưởng … gì đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.

Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.

Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì các ông này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức, xem tôi như em út trong trại tù.

Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30. Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai cũng được về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân. Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu thì ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.

À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…

Năm 18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xui đất khiến thế nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết gì!

Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.

Tôi cũng không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy … ra làm sao..Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.

Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng. Và năm đứa con tôi được một người quen biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi. Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…

Năm đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.

Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi tự túc nuôi con sau này.

Cảnh gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở cười. Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của Nại vẫn còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái đói đang hành hạ chúng.

Nào ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh – đứa con gái đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.

Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen như mực. Mưa gió đang gào thét…

Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.

Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.

Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:

“Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc giờ này con Thanh cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.

Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.

Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.

Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện gì đã xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa nhà.

– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi… Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.

Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.

Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp và hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như vậy.

Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.

Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội đã hất hủi, không thương yêu nó.

Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc. Còn vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.

Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!

Sau 75, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và bị chết thảm như vậy?!

Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê thảm của con Thanh …
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó là hình dáng của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang buộc một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp con Nhàn cũng chạy theo.

Nhưng khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa khóc vừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp cho con ăn.”

Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh.

Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh. Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.

Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly, mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người chị.

Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.


Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng chất, máu me lênh láng, còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một vũng máu, mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống!


Đễ Dàng Qua Cửa Hạ Viện, Giờ Thượng Viện California Vừa Thông Qua Nghị Quyết Ngày Nhân Quyền Việt Nam!

*San Jose, dự trù sẽ có một phái đoàn hùng hậu tham dự, có xe Bus đưa đón đồng hương!

– Thượng Viện California vừa thông qua nghị quyết Ngày Nhân Quyền Việt Nam (ACR 45) do Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg (Dân Chủ-Địa Hạt 34) giới thiệu, với số phiếu 38-0, hôm Thứ Năm, 27 Tháng Tư, theo hồ sơ của cơ quan lập pháp này.

ACR 45 chọn ngày 11 Tháng Năm, 2023, là Ngày Nhân Quyền Việt Nam để ủng hộ những cố gắng nhằm đạt tự do và nhân quyền cho người dân Việt Nam. Nghị quyết khuyến khích người dân California kỷ niệm ngày này với các hoạt động bao gồm, nhưng không giới hạn, tuần hành, tổ chức nghi lễ, và thảo luận.


(Hình: Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Westminster, nơi sẽ có nhiều sự kiện tưởng niệm Tháng Tư Đen.)

Trước đó, hôm 10 Tháng Tư, ACR 45, do Dân Biểu Trí Tạ (Cộng Hòa-Địa Hạt 70) làm tác giả, được Hạ Viện thông qua hôm 10 Tháng Tư, theo hồ sơ cơ quan lập pháp của tiểu bang.

“Tôi tha thiết kêu gọi người dân California, hãy nhân ngày 11 Tháng Năm, để nghĩ đến những người vẫn chưa thực sự được sống tự do. Tôi hy vọng đồng viện tôi sẽ chia sẻ quan điểm này qua lá phiếu bầu đồng thuận,” ông Trí Tạ phát biểu trước cuộc bỏ phiếu tại Hạ Viện.

ACR 45 cũng do Dân Biểu Stephanie Nguyễn (Dân Chủ-Địa Hạt 10), phụ tá thường vụ Hạ Viện, và Dân Biểu Ash Kalra (Dân Chủ-Địa Hạt 25) làm bảo trợ chính và được hơn 60 dân biểu và thượng nghị sĩ bảo trợ.

Trước đó, nghị quyết được giới thiệu lần đầu ngày 22 Tháng Ba, được Ủy Ban Điều Lệ Hạ Viện thông qua ngày 30 Tháng Ba, và được sửa đổi ngày 3 Tháng Tư.

Như vậy, ACR 45 được Thượng Viện thông qua chỉ ba ngày trước ngày lịch sử 30 Tháng Tư, 2023, đánh dấu 48 năm ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản.

Vào những ngày này, Little Saigon, nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất hải ngoại, có nhiều hoạt động để tưởng niệm sự kiện lịch sử này cũng như để tưởng nhớ những người lính VNCH hy sinh bảo vệ tự do của miền Nam Việt Nam cũng như những người bỏ mình trên đường đi tìm tự do.

Được biết, theo dự trù, sẽ có một buổi lễ tiếp nhận Nghị Quyết ACR 45 được tổ chức tại Tượng Đài Chiến Tranh Việt Nam ngay bên cạnh tòa nhà Quốc Hội California, Sacramento, vào lúc 11 giờ sáng Thứ Năm, 11 Tháng Năm. San Jose sẽ có một phái đoàn hùng hậu tham dự, có xe Bus đưa đón đồng hương!

Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg đại diện Địa Hạt 34 bao gồm các thành phố Anaheim, Fountain Valley, Huntington Beach, Garden Grove, Long Beach, Los Alamitos, Midway City, Orange, Santa Ana, Seal Beach, và Westminster.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét