Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023

Đọc lại Thơ Thanh Tâm Tuyền - Trầm Phục Khắc

             (13/3/1936-22/3/2006)
Tháng Ba, chúng ta tưởng niệm người Thi sĩ rất đặc biệt của nền văn học Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) Có thể nói: Thanh Tâm Tuyền, là Thi sĩ Việt Nam đầu tiên khai phá ra thể Thơ Tự do. Thanh Tâm Tuyền sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại Vinh, tên thật là Dzư Văn Tâm.Năm 1952 (16 tuổi), ông dạy học tại trường Minh Tân (Hà Đông) và đăng những truyện ngắn đầu tiên trên tuần báo Thanh Niên (Hà Nội). Năm 1954, ông hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
<!>
Năm 1955, ông vào Sài Gòn, cùng các bạn làm làm tờ Dân Chủ mà Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp phụ trách phần văn nghệ.

Tháng 10 năm 1956, Sáng Tạo ra đời. Từ 1956 đến 1960, Mai Thảo làm chủ bút. Năm 1956, hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền cho in cuốn sách đầu tay Tôi không còn cô độc (thơ), và năm sau Bếp lửa (Văn, 1957), hai tác phẩm đánh dấu sự thay đổi diên mạo văn học miền Nam, đến thời đó vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lãng mạn tiền chiến.

Năm 1962, Thanh Tâm Tuyền nhập ngũ, 1966, giải ngũ, 1969, tái ngũ, ở trong quân đội đến 1975; cấp bực cuối cùng là đại úy trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Sau 1975, bị đi tù cải tạo 7 năm qua nhiều trại giam khắc nghiệt ngoài Việt Bắc. Thanh Tâm Tuyền ra tù 1982. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ tháng 4 năm 1990 theo diện HO, sống ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ, giữ thái độ gần như ẩn dật.

Thanh Tâm Tuyền mất hồi 11 giờ 30 ngày 22 tháng 03 năm 2006, khi mới bước vào tuổi 70. (Tiểu sử – Nguồn từ Wikipedia )

Một số thơ của ông đã được Phạm Đình ChươngCung Tiến phổ thành những nhạc phẩm rất nổi tiếng như: Bài ngợi ca tình yêu, Dạ tâm khúc, Đêm màu hồng, Lệ đá xanh, Nửa hồn thương đau.

TÁC PHẨM:

Thơ

Tôi không còn cô độc (Người Việt, Sài Gòn, 1956)
Liên, Đêm, Mặt trời tìm thấy (Sáng Tạo, 1964)
Thơ ở đâu xa (Trầm Khắc Phục xuất bản, California, 1990)

Tiểu thuyết/Truyện dài

Bếp lửa (Nhà xuất bản. Nguyễn Đình Vượng, 1957)
Cát lầy (Giao Điểm, 1967)
Mù khơi (Kẻ Sĩ, 1970)
Tiếng động (Hiện Đại 1970)
Một chủ nhật khác (Văn, 1975)
Ung thư (đăng nhiêu kỳ trên báo Văn, chưa xuất bản)

Truyện ngắn

Khuôn mặt (Sáng Tạo, 1964)
Dọc đường (Tân Văn, 1966)
Kịch
Ba chị em (An Tiêm196)

Phiếm luận

Tạp ghi ((Phiếm luận, Chiêu Dương 1970)
Đọc lại Thơ Thanh Tâm Tuyền




Lệ Đá Xanh

tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi

đôi khi anh muốn tin
ngoài đời chỉ còn trời sao là đáng kể
mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
đến ngày cuối

đôi khi anh muốn tin
ngoài đời thơm phức những trái cây của thượng đế
mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
nguồn sữa mật khởi đầu

đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
vòng ân ái

đôi khi anh muốn tin
ôi những người khóc lẻ loi một mình
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thành bài hát Nửa hồn thương đau.

Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Tôi không còn cô độc, Người Việt xuất bản, in tại nhà in Hợp Lực xong ngày 15-10-1956

Tranh Đinh Trường Chinh

Crying Green Jade
English translation: Duong Nhu Nguyen
I know of those who cry alone,
non-stop
Those whose tears never roll out of their heart
Don’t you know
tears are green jade
from a heart that wilts

Yes sometimes I want to believe
out there life still holds those stars of significance
‘cause next to them your eyes still sparkle
till our last moment

Sometimes I want to believe
out there life still emanates the intoxicating fragrance of God’s fruits
And next to them, the sweet taste of your lips,
our honey milky way of origin

Sometimes I want to believe
out there life’s full of wild flowers’ purity
And next to them, the lure of your arms,
our circle of love

Sometimes I want to believe
those who cry alone
feel their tears held within
muffled,
pained like green jade
from a heart that wilts

Green jade,
Oh crying green jade,
from a heart that wilts

DNN ©May 8, 2022

Phục Sinh

tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu

tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang

tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh

từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh

tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi

tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật

Thanh Tâm Tuyền, Tôi không còn cô độc, Người Việt xuất bản, in tại nhà in Hợp Lực xong ngày 15-10-1956


Dạ Khúc

Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa

Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy

Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc thành bài hát Dạ tâm khúc.
Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Liên Đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964


Đỉnh Non Xa
July30
Tặng Vũ Duy Hiền và Trần Kim Hải

Hôm ta từ núi cao đi xuống
Trời phả sương mê lạnh nhạt hồn
Đá vách ngún mây kiêu bạc hống
Nhập nhoà tiếng ngậm bặt tang thương.

Tranh Đinh Trường Chinh

Trắng phếu sườn non ngày mới chớm

Một đoá trăng tàn lẩn lút bay
Mùa hiu hắt thổi hoang vu quyện
Lòng ta lạnh vắng như cỏ cây.

Dưới ngọn đèo xa loé nắng xưa
Phiêu bạt rừng già dìu dặt mưa
Triều lũng dựng xanh cuốn gió đáy
Mang mang giọng điệu trí câm mù.

Ta nhớ sau lưng núi thanh thản
Biếc ngây như lệ của đêm điên
Ta nhớ rằng ta không nhớ nữa
Như cây trơ trụi mùa hưu miên

Như phiến gỗ nặng thả theo nước
Bập bềnh trôi nổi ta về xuôi
Như lau lách mọc chen bờ bãi
Phất phơ tóc bạc lả theo trời.

(Giai phẩm Văn 3.9.1974)


Bao giờ
Tặng Doãn Quốc Sỹ

Dù sao mai phòng triển lãm sẽ đóng cửa

(Rồi mở thêm lần nữa
Ðể làm gì)

Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
Con thuyền xuôi
Chiều không xanh không tím không hồng những ống khói tàu mệt lả

Ai xui rằng mùa măng chưa tới
Mà mùa về măng thôi chẳng ngọt
Vườn măng rừng tháng sáu đêm sâu
Muốn làm người học trò mười bảy tuổi
Ðạp xe trên đường đồng
Bông mía trắng những căn nhà ngủ dưới cây
Sẽ thăm những bà con thân thuộc
Một người em hay một bà dì

Trời sẫm

Như mắt
Như ngõ hoang hồn này
Hôm nay
Nghe lời hát quen quen
Người đàn bà ấy mang tên
Lời từ biệt
Trên một sân ga vắng
Tiếng kèn trầm của một chuyến ô-tô-ray
Ðầy dĩ vãng

Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng hay sang Bắc Ninh
Nếu đã đi từ Saigon xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Dầu Một
Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình
Như kẻ say rót rượu lấy mà uống
Cho vui thêm cuộc hành trình
(Ðúng rồi những người thù ghét thơ tôi ơi)
Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc.

Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Liên Đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964


Đen

Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
Tan vỡ hôm qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng không quên chẳng thể được quên
Vì Blues không xanh vì điệu Blues đen
Trên màu da nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu lấy ống kèn như một bùa thiêng

Chọn ngoài thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế giới va chạm những loài kim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp thời gian
Không gian quay thành những vòng kỉ niệm
Rồi một buổi nào Blues hiện về xanh

Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Liên Đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964


NHỮNG BÀI THƠ VIẾT TRONG TÙ

Long Giao (1975-1976)
Đêm thu ở lán 9 Long Giao

Giật mình tỉnh giấc
Bó gối trong mùng
Ai đâu mớ hoảng
Thét tiếng hãi hùng

Heo may rập rờn
Rung âm mái tôn
Núi rừng vây khuất
Lán khuya tối tăm
Vo ve muỗi mòng
Người nằm chen chúc
Lúc nhúc mặt đất
Tỏa ám khốn cùng

Đây đó ngủ thức
Trằn trọc mông lung
Vách khe chuột rúc
Nỉ non dế trùng

Bóng đè ngộp câm
Người vùng giẫy dụa
Khủng khiếp ú ớ
Mê sảng thì thầm

Đêm dài thu phân
Vi vu lạnh nhạt
Hư thực bần thần
Cô đơn ai hát

Vẳng lời đạm bạc
Điệu khúc thời xuân
Như xa như gần
Tình chung mộng biệt

Ngoài đêm trôi tít
Theo sao tàn vong
Theo gió mờ mịt
Ngày lên ngại ngùng

(1975 – 1988)

Bài nhớ thi sĩ

Tặng già Ung
Gửi M.T.

Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ

Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buồi tình đầu

Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối

Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới

Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo, anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô cạn khác thường

Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi, theo vào đêm dập vùi anh đớn đau

Từ lúc nào anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song cửa ngục

Hoang vu thơ hát lời lá cỏ heo hút
Dẫn anh về tận nẻo nguồn hừng đông lẩn lút
(Hừng đông Hừng đông ôi Hừng đông anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai, Mai xa, Mai như hoa, Mai hoa. Mai về tình thơ hôm nay)

Em có hay kẻ tội đồ biệt xứ một buổi về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dò hỏi lớp bóng mờ tàng ẩn

Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn

Em, soi bóng em hồn nhiên ngược lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy lửa tinh mơ đầm ấm.

(Lào Cai 5/77,
Vĩnh Phú 1/78)

******
Vĩnh Phú (1978 – 1982)
Tân Lập K 2 (1978 – 1980)

Chiều cuối năm qua xóm nghèo

Mưa bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng xem tù qua thôn

Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây sẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm

Đêm đông ở k 2 Tân Lập

Tặng L.V.T.

Đêm lạnh nằm co quắp
Thân xương sầu trơ khấc
Bụng trống ruột ục sôi
Đếm hơi thở lay lắt

Hòa trong tiếng gió bấc
Suối chảy siết bồi hồi
Lẫn trong nỗi giá buốt
Thoáng rùng rợn xa xôi
Nhớ đã hơn năm trời
Tin nhà trông vắng bặt

Chốc đã ba đông rồi
Lưu đày trên đất Bắc
Còn qua bao cửa ngục?
Đây quê mình quê người?
Chốn nào về thân thiết?
Ngày nào được thảnh thơi?

Trở mình trên ván chật
Ru dỗ giấc đơn chiếc
Rõi mắt đốm mộng vời
Thương vợ con khôn nguôi

Ngã trên núi Việt Hồng Yên Bái khi đi lấy nứa

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu

Duỗi soải chân tay gối trên nứa
Ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
Tưởng chừng thi thể ai thối rữa
Hồn viển vông chẳng chút oán sầu

Mưa giăng tấm lưới trắng dầy khít
Làng xóm dưới núi ở phương nào?
Gió lạnh tái tê bó liệm chặt
Lả thiếp người quên bẵng sướt đau

Ðầm mình trong hạnh ngộ ẩn mật
Mắt hoen nhòa hứng giọt thiên thâu
Dò dẫm lối về đêm tối mịt
Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?

(Yên Bái, 9-1979)

*****

Tân Lập K 5 (1980-1982)

Thơ tặng bạn đi cày

Người tù như đất tảng trì độn, hít hơi
Mắt đờ đẫn vô giác thiếu ngủ
Đêm qua trời trở rét khô sau những ngày nắng dữ
Đất hóa thạch cứng đày ải người

Người nghe tiếng thở phì phò của trâu
Tiếng tim dội ù tai, ngực nhói
Con vật đói và người cũng đói
Bước mộng du theo nắng lao đao

Hồi hôm trăng lạnh ngời thanh vắng
Đêm nay, và bao đêm nữa, người tù cũng sẽ thức trắng
Chong mắt dòm đêm rõi lối trăng muộn về
Bất thần ánh sáng tỏ lộ tịch mịch dội vang trầm thống

Bừng thoát cơn bải hoải người thúc lưỡi cầy bước mau
Thở dồn hương loãng nhạt của đồng ruộng nhẫn nhục
- Luống cuối cùng, thật ngay. Luống tặng lời chính trực.
Soi bóng mắt nghênh, đen ướt màu bùn, hiền giả, người vỗ về trâu
Trên những cánh đồng đất khốn dạn dầy
Suốt mùa đông ác nghiệt bạo ngược
Trời đất tối tăm giá buốt địa cực
Vẫn lãng du kỳ ảo lời gió khuất mặt đêm trăng xanh bóng tù khổ sai và trâu cày.

(11/81 – 4/88)

Nguồn: Thanh Tâm Tuyền, Thơ ở đâu xa, Trầm Phục Khắc - Hoa Kỳ xuất bản

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét