Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2023

Nhà văn Nguyễn Vân Xuyên - Đỗ Bình


Nguyễn Vân Xuyên, sinh năm 1943 tại quận Bến Cát tỉnh Bình Dương, theo học bậc Tiểu Học tại quận Bến Cát tỉnh Bình Dương, Trung Học Đệ Nhất Cấp tại tỉnh Bình Dương.Trung Học Đệ Nhị Cấp và bậc Đại Học ở Sài Gòn.Tối nghiệp Đại học Khoa Học Sài Gòn- Giáo Sư dạy giờ môn Toán bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp cho các trường Bán Công và Tư Thục trong phạm vi các tỉnh Gia Định và Bình Dương. - Nhập ngũ Khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Đơn vị Tác chiến Sư Đoàn 18 Bộ Binh.
<!>
Con Người:
Nguyễn Vân Xuyên bản tính rất hiền lành, tâm hồn mộng mơ, đa cảm, có óc khôi hài nên cởi mở ít rắc rối. Ông cầm bút viết văn sau khi đến Pháp năm 1982.

Tác phẩm :
Vinh Danh Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.
Nghhệ Thuật Uống Trà
Bến Cát Quê Hương Tôi
Những Chiếc Cà vạt Kỷ Niệm Khó Quên
Cựu chủ bút báo VD.

Nguyên nhân Sinh Hoạt:
Năm 1990, tình cờ ông theo theo hai người niên trưởng là cựu Thiếu tá Hoàng Thụy Long và cụu Thiếu tá Mai Trung Ngọc giám đốc nhà sách Nam Á Paris đến tham dự đúng vào một buổi họp của hội cựu Quân Nhân VNCH đang bầu lại ban chấp hành. Đó là lần đầu tiên ông tham dự phiên họp kể từ ngày đến Pháp nên không ở phe nhóm nào, do đó ông được bầu vào chức tổng thư ký. Nhờ tấm lòng nhiệt thành và sự hay say hoạt động, sau một thời gian ông lên làm hội trưởng thay cựu Trung tướng Trần Văn Trung vì cao tuổi.

Phần tôi, thuở ấy ngoài việc trách nhiệm hội Văn Hóa Cergy, và còn cộng tác với một số tờ báo như Quê Mẹ, Nhân Bản, Chiến Hữu, Ái Hữu, Âu Du, và một số báo khác ỏ hải ngoại… cũng như phụ giúp làm tờ báo Lính mà chủ nhiệm là cựu Trung tướng Trần Văn Trung. Đây là một trong những tờ báo uy tín nhất trong cộng đồng người Việt ở Pháp thời bấy giờ, tòa soạn quy tụ một ban biên tập hơn 20 người, tất cả đều tự nguyện bỏ tiền túi ra thực hiện tờ báo để làm tiếng nói chung cho cựu quân nhân VNCH tại Pháp. Đang sinh hoạt, tôi được nhà văn An Khê, người đầu tiên ở hải ngoại khởi xướng phong trào giúp thương phế binh VNCH, ông mời tôi cùng ông đi khắp miền Nam nước Pháp để vận động đồng bào giúp cho thương phế binh VNCH đang khốn khó ở quê nhà. Ttôi đã nhận lời nên rời khỏi tờ báo Lính, từ đó nhà văn Nguyễn Vân Xuyên thay tôi trông coi tờ báo trong nhiều năm cho đến lúc đình bản. Với vai trò chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân VNCH và chủ bút tờ báo Lính, nhà văn Nguyễn Vân Xuyên trở thnh người nổi tiếng trong cộng đồng người Việt tị nạn ở Paris. Ngoài ra ông còn tham gia nhiều sinh hoạt đấu tranh cho tự do dân chủ của quê hương. Ở đây tôi chỉ ghi lại một số kỷ niệm về một nhà văn, một người có những cuộc tình độc đáo và một Nguyễn Vân Xuyên dù giã từ vũ khí đã lâu nhưng vẫn nặng chất lính trong người. Cái chất nhà binh trong người Nguyễn Vân Xuyên là luôn nhớ phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, điển hình là giữ kỷ luật và hẹn đúng giờ. Ông dùng tư gia mở ra một một bảo tàng nhỏ quân đội, sưu tầm những huy chương, các quân phục, các phù hiệu quân binh chủng và những sách báo liên quan đến quân đội VNCH. Nhà bảo tàng mở cửa được 7 năm thì ngưng hoạt động.

Nhà văn Nguyễn Vân Xuyên thích sinh hoạt với tôi trong lãnh vực văn hóa, văn nghệ. Mỗi khi ông có những sáng tác mới, hay những biên khảo đều gởi cho tôi đọc. Có một thời gian ông lập ra tờ nguyệt san Hoa Tình thương và mời tôi làm chủ bút để mời những cây bút thành danh ở hải ngoại, nhưng do sức khỏe kém tôi không dám nhận lời mời, nên ông đã cùng một số người khác thực hiện, và báo ra được vài kỳ thì đình bản.

Mối Tình Đầu: (Bến Cát Quê Hương Tôi)

Tình tuyệt vọng là bài thơ tuyệt tác của Félix Arvers (1806-1850) một nhà thơ nổi tiếng của Pháp. Thuở đó Thi sĩ yêu cô Marie, nhưng đó là tình yêu đơn phương, nên ông viết bài Sonnet Un secret để bày tỏ tình yêu câm lặng của mình.
Bài thơ Un secret (Điều bí mật) là bài thơ trong tập thơ Mes heures perdues , đây là bài thơ nổi tiếng duy nhất của ông. Trong nền văn học Pháp, Félix Arvers được xem là "Nhà thơ của một bài thơ duy nhất". Bài Un secret được viết dưới dạng một bài Sonnet, là một bài thơ gồm 14 câu, có cấu trúc và luật gieo vần khắt khe, do đó nó cũng thường được gọi là Sonnet d'Arvers (Bài Sonnet của Arvers).
Bài thơ trích đoạn dưới đây do nhà văn Khái Hưng dịch bài "Un secret (Sonnet d'Arvers)".

Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Hỡi ơi, người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng đâu dám một lần hé môi
…….
Những chuyện tình thuở học trò muôn đời vẫn làm xao xuyến lòng người, nhất là mối tình đầu. Tuổi học trò với bao nhiêu mơ mộng, tâm hồn ngây thơ bồng bềnh như những áng mây, và vầng trăng thuở đó còn là cõi thần tiên mộng mị ẩn chứa những niềm mơ ước. Chuyện tình của thời học trò là những kỷ niệm đẹp khó quên của đời người, đó là những tình cảm trong sáng dù lúc giận hờn, hay yêu đương đều nhẹ êm như những cánh diều bay. Có những chuyện tình thật lãng mạn, một người đẹp được năm bảy người bạn trai cùng lớp thầm yêu trộm nhớ là lẽ thường tình, nhưng có mấy người được toại nguyện lấy được người mình yêu ? Nếu người nào may do duyên nợ từ kiếp trước, tái hợp kiếp này thì cũng chỉ có một người may mắn trở thành người bạn đường của người đẹp. Nhưng câu chuyện ở đây khá đặc biệt.

Đây là câu chuyện thật của Nhà văn Nguyễn Vân Xuyên. Chúng tôi thích nghe người bạn già kể chuyện tình để thấy tâm hồn mình được trẻ lại với những ngày tháng thật hồn nhiên.
Ông kể cho chúng tôi nghe mối tình đầu thuở mới bắt đầu lên trung học về ba người bạn rất thân nhau đều yêu một cô cùng lớp. 4 người học trò này đều thuộc loại con nhà giàu ở Quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Người này thì con chủ nhà máy, người kia là con chủ hãng, và ông là con trai của một nhà buôn gạo, còn người con gái là con của chủ tiệm vàng giàu nhất quận.. Ông kể về người thiếu nữ con chủ tiệm vàng:

«Cô Châu Thị Ngọc Sướng rất đẹp tính tình thùy mị nhưng kiêu sa . Cô được xem là Hoa Hậu của xứ Bến Cát vào thuở ấy. còn hai người bạn trai của tôi th rất đẹp trai và học giỏi, hơn hẳn tôi trên mọi phương diện từ bảnh bao, hào hoa phong nhã đến kiến thức văn học ... mỗi khi hai bạn ấy nói chuyện, hoặc kể chuyện thì thường hay dùng các điển tích văn chương chen vào ... thỉnh thoảng còn ngâm lên một vài câu thơ, nhất là thơ của các thi sĩ tiền chiến . Cả hai nói năng trôi chảy, ngọt ngào cho nên rất được sự ngưỡng mộ của phái đẹp, nhất là Ngọc Sướng. Tôi yêu cô ấy rất thật lòng, nhưng còn hai bạn kia thì tôi không biết có mê thiệt Ngọc Sướng hay không, nhưng ngoài mặt thì lúc nào cũng tỏ ra yêu thương trìu mến thiết tha cô, do đó đã làm cho cô siêu lòng! »
Vì sợ bị thua hai bạn đẹp trai, học giỏi, tài hoa của mình nên vội tỏ tình công khai tvới Ngọc Sướng trước mặt 4 người tại nhà của Lê Văn Chơi. Sau khi nghe Tôi chân thành tỏ tình, Ngọc Ngọc với vẻ mặt thật lạnh lùng phán một câu trước mặt 3 chúng tôi:
" Ông còn nhỏ hơn tôi một tuổi nên còn non lắm !Tôi chỉ thích anh Chơi và anh Thường thôi…".

Sau khi nghe Ngọc Sướng nói như thế, 2 người bạn của tôi tỏ ra hãnh diện sung sướng nhìn tôi với những cặp mắt coi thường! Nhưng tôi vẫn không bỏ cuộc, vẫn nuôi hy vọng và âm thầm theo chân cô. Có lần, thấy cô từ nhà thằng Chơi đi ra, tôi đứng chờ ở một khoảng xa rồi tiến ra chận cô lại và tỏ tình. Ngọc Sướng nhìn tôi im lặng không nói một lời, rồi né người qua một bên và tiếp tục đi thẳng. Tôi quay lại nhìn cô bước đi mà lòng buồn rười rượi!
Thời gian trôi đi, tôi tốt nghiệp đại học Khoa Học và đi dạy toán, Nguyễn Văn Thường tốt nghiệp đại học Sư Phạm Đà Lạt đi dạy triết, còn Lê Văn Chơi trở thành một phi công hào hùng. Người đẹp Ngọc Sướng đã chọn người bạn cùng lớp thuở học trò làm chồng. Thế rồi một đám cưới thật tưng bừng, trang trọng được tổ chức tại quận lỵ Bến Cát giữa cặp long phụng trai tài gái sắc, chú rể phi công Lê Văn Chơi và cô dâu Châu Thị Ngọc Sướng, chủ nhân tiệm vàng Ngọc Châu. Phụ rể là hai người bạn chí thân Trần Văn Thường và Nguyễn Vân Xuyên.

Rồi tôi nhập ngũ, động viên vào lính, rồi có vợ có con ... Thường cũng nhập ngũ, động viên như tôi, nhưng được biệt phái trở về dạy học trở lại theo diện " sĩ quan biệt phái nhiệm sở cũ ". Thường còn độc thân, chưa lập gia đình, chắc nó vẫn còn thương yêu Ngọc Sướng. Còn tôi
dù xa cách Ngọc Sướng nhưng vẫn được những người thân trong gia đình nàng cho biết tin: " Chuyện vợ chồng của cô không hạnh phúc, thường xảy ra nhiều lục đục, có lúc suýt tan vỡ, nên Lê Văn Chơi ít khi về lại Bến Cát thăm vợ, để cô sống cô độc một mình ở Bến Cát, thỉnh thoảng có về thì cũng chỉ trong chốc lát để thăm cha mẹ.

Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 khắp chiến trận ở miền Nam đều khốc liệt, nhất là trận An Lộc biết bao nhiêu chiến sĩ đã hy sinh. Phi công Lê Văn Chơi cũng đã gẫy cánh trên vùng trời An Lộc. Anh đã anh dũng hy sinh cùng với những phi công can trường khác của Quân Chủng Không Quân QL/VNCH.

Ngày tiễn đưa Lê Văn Chơi chỉ có một người bạn thân duy nhất là Trần Văn Thường lặng lẽ tiễn Lê Văn Chơi vào nghĩa trang. Còn tôi lúc đó đang mịt mờ khói đạn ở chiến trận nênkhông thể về tiễn đưa bạn lần cuối! Trong đám tang của Lê Văn Chơi, Thường khóc thật nhiều nhưng Châu Thị Ngọc Sướng thì hoàn toàn câm lặng không khóc, khuôn mặt khắc khổ, ánh mắt thật buồn dưới vành khăn tang trắng.

Biến Cố Đau Thương ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến với Miền Nam Việt Nam: Tôi và Trần Văn Thường bị giam tập trung vào các trại tù lao động khổ sai của Cộng Sản Việt Nam. Năm 1978, Thường được thả ra, trở về quê quận Bến Cát, được cho làm công nhân ở Lò Gạch Kim Phi. Năm 1979. Thường may mắn được người mình yêu là Châu Thị Ngọc Sướng chọn và chính thức trở thành chồng nàng, lúc đó Ngọc Sướng đang là chủ nhân của tiệm vàng Ngọc Châu , từ đó Trần Văn Thường thôi làm công nhân Hợp Tác Xã.

Kể từ năm 1980, cuộc sống vật chất của cặp vợ chồng Thường bắt đầu dễ thở và khấm khá hơn lên và cũng từ thời điểm nầy Thường thay đổi tánh tình, sinh ra ăn chơi, rượu, cà phê, thuốc lá, gái tại các tụ điểm văn nghệ ca hát ... hầu như ngày nào cũng say sưa và về đến nhà là lời nặng tiếng nhẹ, nói năng nhảm nhí ... và Châu Ngọc cũng im lặng cam chịu.

Năm 1982, Tôi được thả ra khỏi trại tù của Cộng Sản Việt Nam, về Sài Gòn để lo thủ tục giấy tờ sang Pháp theo diện Sum Họp Gia Đình vì vợ và các con của tôi đã có mặt ở Pháp từ trước Biến Cố Đau Thưong 30.4.75. Tôi trở về quê quận Bến Cát để thăm gia đình, lúc đó, cha mẹ và các em của tôi cũng đang trong tình trạng lo thủ tục giấy tờ chuẩn bị sang Mỹ trong diện ODP/ Sum Họp Gia Đình do em gái của Tôi bảo lãnh.

Không thông báo trước, tôi đến tiệm vàng Ngọc Châu để thăm Ngọc Sướng mới biết Thường và Ngọc Sướng đã lấy nhau. Ngọc Sướng mời cả 3 người cùng ăn sáng tại nhà, trong lúc ăn nói chúng tôi cũng không có nói chuyện gì nhiều ngoài chuyện hỏi thăm về gia đình ... Sau đó thằng Thường mời tôi đi uống cà phê và sau đó 2 đứa đi thăm mộ của thằng Chơi.

Được biết tình trạng gia đình hiện nay của Thường và Ngọc Sướng không được êm thắm tốt lành cho nên tôi bảo Thường đưa tôi về và tránh né không gặp lại họ nữa ... Tôi âm thầm trở về Sài Gòn không một lời từ biệt.

Tháng 2 năm 1982 tôi có mặt tại Pháp và sau đó, được biết tình trạng gia đình của Thường và Ngọc Sưng càng ngày càng bi đát trầm trọng hơn lên ...Thường vẫn tiếp tục rượu, gái, say sưa cả ngày, say quên cả đường về nhà!

Cuối năm 1984, tôi nhận được tin Thường qua đời vì bệnh ung thư gan và thân xác của nó được an táng tại nghĩa trang ở Cầu Bến Củi sau chùa Minh Long và nó nằm bên cạnh thằng Chơi. Đám tang của Thường còn buồn thảm hơn đám tang của Lê Văn Chơi ... chỉ có ba má Thường, ban đạo tỳ, 2 thằng bạn nhậu của Thường và Châu Ngọc mà thôi.
Từ đó cô Ngọc Sướng nương náu của Thiền để tìm sự giải thoát và trở thành Ni Cô Diệu Ân. Chị cô và cô cùng quyết định hiến thân cho từ thiện giúp đời.

Ngày mẹ tôi mất ở Mỹ, tôi, một mình, đáp chuyến bay trực tiếp từ Paris về Sài-Gòn ... rồi từ Sài-Gòn tháp tùng cùng gia đình của các em về từ Hoa Kỳ có quan tài của thân mẫu đưa về tận quê quận Bến Cát một cách an toàn tốt đẹp.

Một điều làm cho Tôi rất ngạc nhiên và vô cùng xúc động vì hoàn toàn không hề được thông báo trước: Khi phái đoàn xe tang về tới Bến Cát, về đến trước cửa nhà thì đã có mặt của Sư Bà Diệu Ân cùng 10 Ni Sư trong Ban Hậu Sự của chùa Minh Long trang trọng đón tiếp và thực hiện ngay lễ An Vị Linh Cửu và Phát Tang cho toàn thể gia đình một cách thật trang nghiêm và chu đáo.

Nghi lễ vừa xong, tiếng khóc nức nở thương tiếc người quá cố vẫn còn day dẳng âm vang ... thì có một ni sư, tay cầm máy phát thanh loại cực nhỏ cất tiếng nói : "Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Sư Bà Diệu Ân, Viện Chủ thiền đường Minh Long. Kính thưa toàn thể quý thí chủ của gia đình ... lễ nhập gia, lễ an vị linh cửu và lễ phát tang đã xong. Bây giờ xin kính mời một thí chủ đại diện gia đình gặp riêng Sư Bà Diệu Ân để biết chi tiết chương trình hậu sự và nhất là các lễ thời kinh hàng ngày ».

Gia đình của chúng tôi có tất cả 11 người con ( 5 trai + 6 gái ), đã có 1 người con trai thứ 6 qua đời, hiện còn lại 10 với 4 trai và 6 gái ... Tôi là con trai trưởng và Tôi sẽ đại diện cho gia đình để gặp riêng Sư Bà Diệu Ân.

Tôi rót một tách trà đưa về phía Sư Bà Diệu Ân rồi rót một tách trà cho Tôi ... Tôi im lặng nhìn, quan sát Sư Bà Diệu Ân ... lần cuối cùng Tôi gặp Sư Bà Diệu Ân tức Châu Thị Ngọc Sướng cách đây 33 năm tức là vào năm 1982, trước ngày Tôi rời Việt Nam đi Pháp ... lúc đó có mặt thằng Thường, bạn của Tôi, đang là chồng của Ngọc Sướng ... và bây giờ, Ngọc Sướng đang ngồi một mình trước mặt Tôi, thời gian thật dài đã trôi qua, tuổi đời đã chồng chất ... Tôi đã già rồi và Tôi nhìn thấy Ngọc Sướng cũng đã già ... nhưng ở Ngọc Sướng vẫn còn có một vẻ đẹp kiêu sa, đài các mà một thời Tôi đã đắm đuối say mê và yeu thương ... Để đo lường tình cảm của Ngọc Sướng đối với Tôi trong lúc nầy ra sao, Tôi lên tiếng trước :

" Thưa Sư Bà, bây giờ Con phải gọi Sư Bà bằng gì đây, thưa Sư Bà ? ".

Không trả lời ngay câu hỏi của Tôi ... Ngọc Sướng im lặng nhìn Tôi ... Tôi nhìn lại Ngọc Sướng và thấy Ngọc Sướng khóc ... những giọt nước mắt nhỏ lăn trên đôi má ... Ngọc Sướng nói nhỏ với Tôi trong xúc động nghẹn ngào :
" Trước mặt mọi người vì lễ, đạo, xin Xuyên gọi tôi là Sư Bà, còn nếu chỉ có một mình tôi với Xuyên thì Xuyên muốn gọi tôi là gì cũng được, Xuyên cứ gọi như ý Xuyên muốn » .

Hồi còn nhỏ, lúc còn đi học ở tiểu học, rồi vài năm ở trung học, Ngọc Sướng lúc nào cũng gọi Tôi là Xuyên một cách thân mật, đúng với cái tên Xuyên mà cha mẹ đặt cho ... Kể từ khi Tôi chính thức tỏ tình với Ngọc Sướng và không được chấp nhận ( tức là năm Tôi được 17 tuổi và Ngọc Sướng thì 18 ), thì từ đó, Ngọc Sướng không bao giờ gọi tên Xuyên của Tôi nữa mà chỉ gọi Tôi là ông hoặc nói một cách trống không, mông lung ... và ngày hôm nay, hơn 50 năm ... Ngọc Sướng mới gọi lại tên Xuyên một cách thân mật của ngày nào ... Tôi đã khóc lúc nào không hay ... những giọt nước mắt của Tôi đã rơi và Tôi cũng không biết vì sao Tôi đã khóc ?

Suy nghĩ một lúc rồi Tôi hỏi Ngọc Sướng :
" Làm sao mà Ngọc Sướng biết được Má của Tôi mất và sẽ được đưa về Bến Cát an táng mà tổ chức cho gia đình của chúng tôi một buổi lễ tôn giáo thật trang trọng như hôm nay ? ".

Ngọc Sướng có vẻ bình tỉnh và trả lời với những lời nói thật rõ ràng :
" Xuyên này, việc cô T ư mất ở Mỹ và sẽ đưa về Bến Cát an táng, tin nầy, cả tuần lễ nay, ở xứ Bến Cát nầy hầu như mọi người đều biết cả rồi ... cô T ư vừa mất, Mỹ Dung đã gọi về báo cho tôi, cho Khanh và cho bạn bè của Mỹ Dung ở Bến Cát biết »...
Nghe Tôi nhắc đến tên của thằng Chơi và thằng Thường thì Ngọc Sướng buồn bã nói :
" Xuyên ơi, tôi có chung sống với ông Chơi và ông Thường thì tôi mới thấy lời nói của Xuyên là đúng, tôi nhầm lẫm và hối hận vô cùng.. còn phần ông Thường thì nó diễn ra tại đất Bến Cát nầy ... gia đình của tôi thật xấu hổ với mọi người, đến nỗi ba má của tôi phải mang bệnh mà chết ... và chính Xuyên cũng đã tận mắt chứng kiến khi Xuyên về Bến Cát thăm chúng tôi trước khi Xuyên đi Pháp ... tôi biết lúc đó Xuyên rất thương và rất tội nghiệp cho tôi, đến nổi Xuyên không dám trở lại từ giã tôi trước khi đi. Hai lần tôi đưa 2 người chồng ra nghĩa trang buồn mà tôi không thể khóc được ... nhưng ngày hôm nay, một mình ngồi trước mặt Xuyên ... nhớ lại những lời yêu thương chân tình mà Xuyên đã nói với tôi cách đây hơn 50 năm, lúc chúng mình còn rất trẻ ... Xuyên ơi, tôi đã khóc, những giọt nước mắt hối hận yêu thương đã lăn trên má của tôi, tôi muốn dành cho Xuyên ... Xuyên ơi, tôi xin lỗi Xuyên, hôm nay, tôi muốn chính thức nói lời yêu thương Xuyên và trả lại sự công bằng cho tình cảm mà Xuyên đã dành cho tôi. Hiện nay, tôi là một ni sư, là người đã tu hành quy y nơi cửa Phật, mà tôi nói những lời nầy với Xuyên là tôi đã và đang có tội đối với các đấng Phật, Trời ...nhưng tôi xin nhận chịu, xin được sám hối và xin được tha tội vì đó là sự thật. Xuyên ơi, cô Bốn qua đời là một niềm đau thật to lớn cho gia đình ... nhưng cô Bốn tâm nguyện là được đưa về Bến Cát an táng là một điều may mắn cho tôi, là cho tôi được gặp lại Xuyên ... nếu không, thì làm sao tôi được gặp lại Xuyên để nói lên những lời trần tình nầy ... Bây giờ, tôi cảm thấy lòng mình thật thanh thảng, hạnh phúc mặc dù tôi đang có tội với các đấng thiêng liêng. Tôi đã cố tình thu xếp để được gặp riêng Xuyên, tôi nghĩ Xuyên cũng đã hiểu và nhận thấy điều nầy. »
Uống một ngụm trà, Ngọc Sướng nói tiếp :

“Xuyên này, một lần nữa cho tôi xin lỗi ... đừng buồn, giận tôi nha Xuyên ... chúng mình bây giờ ai cũng già hết rồi ... còn được gặp lại nhau, đó là Duyên, là Đức, là Phước, là Hạnh đó nha Xuyên, Xuyên có thắc mắc gì không, cho tôi biết tôi trả lời ...".
Thấy Sư Bà Diệu Ân trình bày mọi việc một cách trôi chảy , tôi lợi dụng chỉ có một mình Tôi và Bà, Tôi bèn cười cười hỏi Bà :
" Thưa Sư Bà, con thấy ở bên Pháp, các sư ông và sư bà cùng tu chung với nhau dưới một mái chùa, con không biết ở Việt Nam ra sao, nếu có thể được, vài năm nữa con xin phép sư bà, đưa vợ con về Việt Nam rồi vợ chồng tụi con xin vào tu chung với sư bà ở chùa Minh Long cho vui, thưa sư bà ... ".

Sư Bà Diệu Ân bật cười và nói :
" Mô Phật, đồ quỷ, đừng đùa giỡn, tội lắm đó nha thí chủ ... thôi xin chia tay, tối nay sẽ gặp lại nhau. Mô Phật".

Tại chùa Minh Long, Sư Bà Diệu Ân có gặp riêng vợ chồng chúng tôi ... Sư Bà Diệu Ân trong tư thế thật trang trọng, bà nói với vợ của Tôi một câu như sau :
" Nam Mô A Di Đà Phật. thí chủ là một người có được phận duyên thật tốt, có được một đời sống tình cảm gia đình hạnh phúc an lành, có được một người bạn đời thủy chung hết mực thương yêu mình ... bạch thí chủ, đã hơn 70 tuổi đời mà vẵn còn được vui sướng sống bên nhau ... đó chính là Duyên, là Đức, là Phước, là Hạnh. Xin chúc mừng cho thí chủ và gia đình. Nam Mô A Di Đà Phật ".

Cả 2 chúng tôi cùng chấp tay trước ngực và cùng nói : " A Di Đà Phật. Chúng con xin cám ơn sư bà ".

Cha vợ của nhà văn Nguyễn Vân Xuyên là một cựu đảng viên lão thành VNQDĐ ở Pháp vào những thập niên 50, 60 và 70 cùng thời với hai anh, em nhà cách mạng lão thành VNQDĐ Đào Văn Cả, Chu Bá Phượng, Nhược Tống.

Đỗ Bình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét