Đường Phố Hà Nội trước 75
Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc. Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi:- “Bác ở Hà Nội mà cũng đi ty nạn à…?” Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười: - “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi… nữa là bác!” Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm1982.
<!>
Sinh trưởng tại Hà
Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có
người vì tò mò, có người giễu cợt. Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và
muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ,
và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền
Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những
gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ
không mặc áo dài.
Hiệp định Geneva chia
đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10
năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu
điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng
thành, tôi đã không hiểu thế nào là …Vẹm! Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở
Hải Phòng.
Dân đông nghịt thành
phố, chờ tầu há mồm để di cư. Trước Nhà Hát Lớn,vali, hòm gỗ, bao gói xếp la
liệt.
Lang thang chợ trời,
tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam
chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất.
Ai ngờ cộng sản miền
Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi,
không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng
thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội
“tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi
một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn
ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những
toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên
nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn.
Tới cầu Long Biên tức
là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người.
Thằng bé ù chạc 15
tuổi, quắc mắt nhìn tôi:
“Ðề nghị đồng chí xác
định lại thái độ, lập trường tư tưởng!”
Tôi bàng hoàng vì thứ
ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt,nghe lần đầu không hiểu, để rồi
phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: “đấu tranh”, “cảnh giác”,
“căm thù” và … “tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép.)
Hà Nội im lìm trong
tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban
hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ
lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội
“xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch
sử thành “dép râu”.
Chiếc áo dài duyên
dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong
kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên,
“toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như
đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hà Nội,
tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú
tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười
năm”. Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu
đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô
dịch!”
Họ truy lùng… đốt
sách! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ
quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư
viện phố Tràng Thi, để đốt.
Lửa cháy bập bùng mấy
ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của
bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!”
Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo…cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ
học.
Chiếc radio Philip,
“tự nguyện”, mang ra “đồn công an”, thế là hết,gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi
bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu
thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”.
Ðây là chính sách dồn
ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ
bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, … đi tù!
Tết đầu tiên sau “tiếp
quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng
võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp
quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì
những tin đồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần,
“hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.
Âm thầm, tôi dạo bước
bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc
Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ
sĩ Hà Nội.
Ðoàn Chuẩn nhớ thương
hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản,
rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày
qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan
mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.
Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc
Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám
gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”
“Chỉ thị Ðảng và Ủy
ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy
gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên
hoan tập thể”.
Lý do giết chó, nói là
trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư
sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững
tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người
nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách,
khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người
trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng.
Người thành thị, làm
cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là
“tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
Nông dân có dăm sào
ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá”!
Giáo sư Trương văn
Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư
vào Nam hết, chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và
“thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là
“bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy
thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài hàng ngày
tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách”
về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc
lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ,
“điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá
điền, hiếp vợ sặc máu …!
Một vài vụ, do “Ðảng
lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích
cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.
Cảnh tượng này thật
não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân …” là
vậy!
“Bần cố nông” cắm biển
nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập
thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn
miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… NÓI DỐI!
Mọi
người, mọi nhà “THI ĐUA NÓI DỐI”,
nói
những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp
sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã
hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How
are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”
Ở miền Bắc VN thời đại
Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “Công tác thế nào?”
Dù làm nghề bơm xe, vá
lốp, người ta trả lời, “…rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào
mừng… các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến
Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”
giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về
Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù
tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng
ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.
Cơ hàn thiết thân, bất
cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội,
đói rét triền miên nên cũng “biến chất”!
Ðối
xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh
giác”.
Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy sụp tinh
thần vì danh từ “đồng chí”!
Nằm trong xà lim,
không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện
tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón
tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà Nội ở lại tham gia hoạt động “Nhân
Văn Giai Phẩm”, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng,
không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng
đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng
nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du lịch Việt
Nam, ít có ai lên vùng Thượng Du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang
hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức
chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng
gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội,
vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut.
Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp”
trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.
Tù chính trị nhốt lẫn
với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị
chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn công Trứ
gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan
Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì
“lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng
vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không
có ngày về…! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao
vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình Nghệ Sĩ!
Người già Hà Nội chết
dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà
Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn
người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành”
những gì Ðảng … NÓI DỐI!
Tôi may mắn sống sót,
dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người
“Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm
trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian
khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển. Hải
Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính
quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế
giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
Năm 1980, tôi vào Sài
Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén
lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây.
Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài Gòn cũ, cảnh tượng rồi
cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.
Dân chúng miền Nam
“vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha
mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh
Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính
theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón
cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố
chút nào!”
“Hà Nội, trí thức thời
Tây, chứ bộ…!”
Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch
sĩ giỏi!”
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu”
của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền
Nam” ở Saigòn, tôi đã
tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến
lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi nó cũng chạy thoát chế độ Cộng
Sản”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi,
tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói
tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở
Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát,thương đau. Khi đã lang thang
“đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể
ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên
chế nhà nước”.
Tôi mang nhẫn nhục,
“kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt
được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có người “kêu ca” về
“chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông
cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công
dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây
giờ “đổi mới”.
Tiếng “đổi” và“đổ” chỉ
khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn
biến hòa bình”. Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó
là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ…!
Nguyễn Văn Luận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét