Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2022

Hương Trầm - Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích


Thời kỳ Bắc thuộc, bọn quan lại Trung Hoa bắt dân ta xuống biển mò ngọc trai, lên rừng tìm trầm hương, ngà voi, sừng tê giác phải chịu trăm điều gian nguy, khổ ải. Có kẻ ra đi bỏ xác trên rừng. Người được trở về thì mang bệnh tật suốt đời. Thời đại ngày nay, sau ngày 30 tháng 4,1975, cuộc sống của dân ta mỗi ngày mỗi thêm kham khổ. Dân quê phải cào bới trên đồi hoang trồng sắn trồng khoai để có cái ăn. Người ta bắt đầu đào xới dưới đất để tìm vàng. Dọc bờ suối, trên sườn đồi, trong rừng sâu, nơi nào nghi ngờ có quặng vàng là người người bu vào xới tung lên. Có kẻ sập hầm bị chôn sống. Không ít người chết vì bệnh sốt rét vàng da, chết vì sơn lam chướng khí... Chưa kể cảnh đâm chém, giành giựt, thanh toán nhau vì vàng. 
<!>
Trong cảnh khốn cùng ấy, nghề tìm trầm hương nổi lên cùng lúc. Nhưng là một nghề đầy hiểm nguy trực diện với thú dữ, nước độc, bệnh tật và muôn vàn cái chết chực chờ. Phong trào trầm dấy lên từ các vùng nông thôn lan nhanh đến thành thị. Người nghèo mạt hạng bỗng chốc có tí “nổ” chạy nghênh ngang ngoài đường, vàng đeo trên tay lấp lánh. Lại có cả nhà xây vách gạch, mái ngói giữa đám nhà lá vách trét đất bùn rệu rã. Cũng có lắm kẻ vai u thịt bắp trúng trầm bỏ cô vợ chân lấm tay bùn nơi ruộng đồng lấy người con gái nơi thành thị môi son má phấn mà quá khứ đen như đêm ba mươi. Từ hang cùng ngõ hẻm đến quán cóc bên đường làng, đâu đâu cũng nghe bàn tán về trầm.Ông Hà Lương nguyên là thợ rừng giàu kinh nghiệm, nhiều năm miệt mài trên vùng rừng núi KonTum, Ðắc Lắc nôn nao trước làn sóng người đổ xô tìm trầm. Cố ngơ đi mà không được ông bèn bỏ nghề khai thác gỗ chuyển qua tìm trầm. Ông đứng ra làm chủ bầu thành lập toán đi điệu.

Phan Huy Ðông hai lần thi đậu đại học nhưng vẫn không được “cắt hộ khẩu” để di chuyển vào thành phố nhập học với lý do cha ruột thuộc diện “Tập trung cải tạo”. Buồn chí, Ðông theo bầu điệu đi tìm trầm.

Những chuyên viên tìm trầm có hạng đa phần là người Phú Khánh. Vì vậy ông Lương và Ðông phải đích thân vào Phú Yên tìm người nhiều kinh nghiệm. Có sẵn danh sách trong tay nên việc tìm người có khả năng chẳng khó khăn gì.

Người đầu tiên là Trần Văn Thí sinh trưởng ở Tuy Phước sống tại thị xã Tuy Hòa, đã hành nghề đi điệu gần mười năm. Hắn chỉ nhìn da cây dó là biết có trầm nhiều hay ít trong ruột. Bạn bè ví von:

“Tề Thiên Ðại Thánh có thiên lý nhãn, Trần Văn Thí có tia nhìn xuyên mộc”. Trong buổi tiệc họp mặt tại nhà ông Lương, Thí đã tỏ ra là người sành sỏi về nghề tìm trầm, hắn giải thích:

- Trầm hương chỉ được cấu tạo trong cây dó bầu. Loại dó nầy có lá to, dày, thịt cây màu trắng. Cây nào trầm ăn nhiều thì thịt cây trở thành màu vàng. Cây dó nào suôn đuột ít nhánh ít cành, thân cây cằn cỗi là chắc mẩm có trầm ăn bên trong ruột.

- Tại sao vậy?

Ông Lương vừa châm rượu vào ly cho Thí vừa hỏi.

Hít hết hơi thuốc cuối cùng, vứt tàn thuốc qua cửa, Thí giải thích:

- Khi tinh dầu trầm đã thành hình nhiều trong ruột, cây sẽ không lớn nổi vì sức nóng của nó. Những cây dó nầy lâu năm sẽ bị chết khô. Có khi ngả xuống đất rồi bị lá cây rụng chất chồng lên. Lớp thịt bọc ngoài cây dó mục dần chỉ còn trơ lại cái lõi trầm.

Thí vừa nói, vừa rút một điếu thuốc Ðiện Biên, xóc xóc hai đầu:

- “Có một huyền thoại về cây dó bầu trên sáu trăm năm, toàn bộ phần ruột cây dó biến thành kỳ nam nhưng chưa ai tìm thấy. Nhiều người sành nghề trầm, có cơ may bắt gặp mùi hương của nó nên đoán được loại kỳ nam. Ðúng giờ Ngọ ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng là nó phát tiết. Hương trầm tỏa thơm nồng cả cánh rừng. Người nào đi vào phạm vi tỏa hương của nó cũng ngẩn ngơ, đầu óc mê muội đi, không biết ngày đêm, không biết mình là ai. Ðến lúc mùi hương ma quái đó biến mất họ mới sực tỉnh và tiếc nuối. Người mới gặp mùi hương nầy sống trong nỗi hoài nhớ mãnh liệt, ba tháng mười ngày sau thì chết. Ðúng Ngọ thi thể họ tỏa ra mùi trầm thơm ngát.

Ðông ngắt lời xen vào:

- Vì vậy mà các nhà nghiên cứu về trầm hương đã đặt tên là “Gỗ của các vị thần”. Theo anh biết thì đã có điệu nào trúng được kỳ nam chưa?

- Có chứ, đó là trầm thượng đẳng. Gặp nó cũng là cơ duyên “lộc trời cho” của kẻ tìm trầm.

Thí ngừng một chặp, gắp một miếng dồi thịt cầy bỏ vào miệng:

- Anh Tư Lương nấu món cầy ngon thật. Quê Tuy Hòa tôi ít khi được ăn món đặc biệt nầy.

Thí nâng ly rượu nếp than mời anh em trong nhóm cùng chúc mừng buổi gặp gỡ. Hắn ngửa cổ tu một hơi rồi đặt ly xuống bàn:

- Còn một số loại cây dó khác nữa như dó me, dó niệt... nhưng ít khi có trầm ăn trong ruột, hạ nó xuống thêm phí sức mà chẳng được gì.

Phận đưa cặp mắt thán phục nhìn Thí rồi lên tiếng:

- Trầm được chia làm mấy loại, thưa anh?

- Trầm hương chia làm nhiều loại tuy không có tiêu chuẩn nào rõ rệt, nhưng cặp mắt chuyên môn của người đi trầm tựa như người chuyên nấu rượu ngày xưa chỉ cần chấm một giọt vào lưỡi là biết nồi rượu đã đủ độ chưa. Ngoài ra còn tùy thuộc vào bọn “tàu kê”. Bọn chuyên viên nầy phân loại trầm độc địa lắm. Chúng nó thông đồng với các công ty dược hoặc các địa điểm thu mua đánh rớt hạng loại hàng của mình, ép giá để ăn chia. Chúng nó có kể gì đến mồ hôi, xương máu của kẻ tìm trầm. Ðại loại trầm chia làm sáu hạng:

- Sau kỳ nam là trầm búp còn gọi là dách. Loại trầm nầy khi vừa đẽo phần gỗ bên ngoài là xuất hiện trầm màu nâu sậm. Gặp loại nầy, có điệu cho là kỳ nam. Nhưng thực ra làm sao sánh được với độ đen của tinh dầu đậm đặc óng ánh của kỳ nam. Trầm kỳ nam gỗ nặng và nhuyễn có đủ vị cay, chua, đắng, ngọt, thơm. Khi cháy, ngọn khói màu xanh, lên thẳng và cao, bay lờ lững rất lâu. Bầu điệu nào mà gặp được Dách cũng coi như trúng độc đắc rồi.

- Loại 1 và 2, trầm được tỉa lấy ra từ thân cây đủ loại hình dáng khác nhau nhưng phải có màu nâu đen, miếng trầm có độ dày, phát mùi thơm nhẹ và có vị cay lẫn đắng.

- Loại 3 giống tiêu chuẩn loại 1 và 2 nhưng miếng trầm mỏng và nhỏ hơn, nom không được đẹp mắt.

- Loại 4 và 5 là trầm bình thường có chen nhiều màu vàng của gỗ dó.

- Loại trầm bể vụn được cho vào loại “xô”.

Các tay điệu còn phân biệt trầm ăn ở nơi nào trên thân cây để đặt tên. Chẳng hạn, trầm ăn theo mắt cây gẫy gọi là “Mắt đẫu”, ăn theo miệng lỗ kiến đục thì gọi là “Kiến”, ăn trong thân gần cháng hai, cháng ba cây giống hình con bướm thì gọi là “Ðiệp”.

****
Sau buổi họp mặt, ông bầu Lương phân công cho từng người phụ trách. Mỗi người phải lo sắm sửa đầy đủ vật dụng. Cơ bản là phải có chiếc ba-lô của bộ đội hay của lính Miền Nam càng tốt. Mang theo 15 ngày Mễ (gạo), Diêm (lương khô), thuốc hút, thuốc chống muỗi, chống vắt, một cái đèn pin, áo mưa và dụng cụ khai thác trầm như rựa, búa, rìu, bộ đục vũm để tỉa trầm... Riêng phần Ðông thì mang theo xoong nồi và chén đũa.

Rừng Khánh Hòa thì nổi tiếng về trầm từ xưa. Nhưng rừng Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi là tụ điểm mới nhất của “trận chiến khai thác trầm” thời bây giờ. Chính quyền địa phương chỉ cấp giấy phép khai thác trầm cho người chủ bầu có hộ khẩu ở huyện Ba Tơ nhưng được quyền mướn điệu chuyên nghiệp ở các nơi khác tháp tùng.

Thời gian đi về giới hạn mười lăm ngày. Trầm khai thác được bắt buộc bán cho công ty dược của nhà nước với giá chỉ bằng nửa giá thị trường. Những toán điệu người kinh từ các nơi đổ xô về đây đều bị chận lại. Tuy nhiên, họ cũng còn nhiều hướng khác để đi chui, chỉ xa đường hơn và phải trốn tránh lực lượng kiểm lâm và đoàn quân truy bắt người khai thác trầm lậu.

Trước ngày “ra quân” nhóm bốn người gồm có Lương, Thí, Ðông và Phận giữ lòng thanh sạch, làm lễ ăn thề. Họ thay nhau uống hết ly “Bạch kê huyết” (máu con gà trắng) hòa với rượu cắt ngay trên bàn thờ khói hương nghi ngút. Vị chủ lễ là một pháp sư người Ra-Ðê lần lượt rảy rượu lên đầu bốn thành viên sau khi đọc lời thề:

“Nếu có lòng dạ tráo trở, xin Thần Núi tru diệt”.

Sau giờ phút đó họ trở thành anh em kết nghĩa, sống chết có nhau, gặp may cùng hưởng, gặp nạn cùng chia.

Ngày khởi hành nhằm tiết Nguyên tiêu, trời trong, gió mát. Toán điệu theo hướng khu rừng Bồ Nâm thuộc huyện Komplong tỉnh Kontum. Nơi đây rừng núi trùng điệp, nổi tiếng là chốn thâm sơn cùng cốc, nằm giữa biên giới hai tỉnh Quảng Ngãi – Kontum.

Ðường đi càng lúc càng khó khăn, phải cắt rừng vượt thác, trèo lên những con dốc đứng đến nỗi mũi chạm đất, người đi sau hôn gót chân người đi trước. Quả là nơi “sơn cùng thủy tận”. Ði suốt ba ngày mới xuất hiện rải rác những cây dó bầu trong khu vực nầy. Ban đêm ngủ trong đon (căn lều) đóng tạm bằng cây rừng che bằng những tấm áo mưa. Ðông và Phận thay nhau giữ vai “anh nuôi”. Họ tìm rau tàu bay, măng le cung cấp thêm cho bữa ăn. Ngoài ra còn phụ giúp ông Lương và Thí hạ cây dó, cưa từng đoạn, bửa ra làm đôi, xẻ từng mảnh để tỉa phần trầm ăn trong thân cây.

Qua hai ngày “đóng quân” ở khu vực nầy, việc tìm trầm chưa có kết quả gì. Vào trưa ngày thứ ba, bỗng tiếng súng, tiếng mìn nổ vang rền cùng những đám khói bốc lên ngùn ngụt từ phía xã Hiếu. Sau nầy mới hay toán điệu và dân thượng Sơn Hà đốt nhà để trả thù trai làng của họ bị toán võ trang dân tộc làng Ngọc Têm bên Kontum giết. Sự việc xảy ra vào hai tháng trước đây, như sau:

Toán điệu ở Sơn Hà đến khai thác trầm vùng giáp ranh huyện Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi và Komplong thuộc tỉnh Kon Tum. Một toán võ trang địa phương Bồ Nâm (Kontum) đột nhập bất thần vào lều bắn chết anh điệu đang vo gạo thổi cơm chiều trên bờ suối. Họ cướp hết vật dụng, lương thực và số trầm đã khai thác được trong mấy ngày qua. Toán điệu đi tìm trầm trở về “đon” thấy bạn mình đầu bị đạn bắn vỡ ra, não sọ văng tung tóe gục chết trên soong gạo. Máu tuôn đầy, biến nồi gạo thành nồi máu. Họ chỉ biết ôm xác bạn mà khóc rồi mang nạn nhân về cho gia đình chôn cất. Hai tháng sau, thân nhân của người chết cùng dân bản làng và các toán điệu hợp lại tràn qua biên giới vào làng Ngọc Têm đốt phá tiêu hủy hầu hết ngôi làng.

Trước tình hình rối loạn nầy, dân làng bên kia có thể tràn qua ranh giới giết địêu để trả thù. Ông Lương quyết định rời khỏi khu vực hiện tại tiến về hướng khu rừng Ba Xa. Lại phải mất hai ngày sau mới đến nơi. Phần mễ chỉ còn lại tám ngày ăn mà trong ba lô chưa có một miếng trầm nào đắt giá. Vừa đến nơi dự định, Phận phát giác được hang đá, tuy không rộng lắm nhưng đủ chứa được bốn người ngủ tạm hàng đêm. Ông Lương và Thí bủa đi tìm cây dó, còn Ðông quét dọn hang đá, sắp xếp vật dụng đâu vào đấy. Phận xuống suối lấy nước nấu cơm cho buổi chiều.

Suốt hai ngày vất vả hạ cây dó đồ sộ có dấu hiệu có trầm ăn bên trong. Cả ba người vừa cưa vừa chẻ, còn Thí với tay nghề tỉa trầm thành thạo cũng lấy được một ít trầm thuộc loại 3 “mắt đẩu”, “kiến” và “điệp”, còn lại là trầm “xô”. Chừng đó trầm, bọn tàu kê có mua cao tay khoảng vài cây vàng thì làm sao đủ vốn sắm sửa lo cho chuyến đi tới, mọi người buồn não nuột.

Ngày hôm sau, ba người lại bủa đi tìm cây dó, Ðông ở lại trại lo nấu ăn cho buổi chiều. Hắn đi dọc theo bờ suối, tìm rau tàu bay và định bắt ít ốc đá đem về nấu canh. Chợt, Ðông trông thấy bên kia bờ suối nửa con heo rừng còn tươi rói. Hai đùi sau, và phần ruột gan bên trong đều bị moi lấy mất. Ðông mừng quýnh vác heo về hang đá cắt lấy hai đùi trước làm món xào cho anh em thưởng thức, còn lại cái đầu và phần bả vai dành cho bữa ăn hôm sau. Dù không có chút gia vị nào mà hương thịt rừng thơm ngào ngạt. Nồi thịt vừa chín tới thì ba người kia về đến hang. Phận trố mắt nhìn xoong thịt vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Ông Lương và Thí nhìn cái đầu heo rừng treo lủng lẳng trên cành cây trước hang đá, Thí vội hỏi:

- Thịt ở đâu vậy?

Ðông hớn hở trả lời:

- Của ai bỏ bên kia bờ suối nửa con heo rừng.

Thí buột miệng:

- Trời ơi, cậu cướp mồi của Ngài, làm sao tránh khỏi báo thù!

Khuôn mặt Thí tái xanh như gà bị cắt tiết. Anh yêu cầu đem trả lại chỗ cũ cái đầu heo rừng và xoong thịt đã chín. Phận giúp Ðông mang cả hai món thịt đổ đúng nơi máu heo rừng còn đọng vũng. Khi quay về họ ngạc nhiên thấy ông Lương và Thí hạ cây rừng chung quanh chất ngoài miệng hang đá thành một vòng cung như chuẩn bị cho đêm lửa trại.

Khi cơm nước xong, trời bắt đầu chập choạng tối, ông Lương cho mồi lửa vào đống cây. Thí giải thích:

- “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Ðó là câu nói từ ngàn xưa để lại. Bọn mình phải đánh đổi mạng sống để cứu vớt cảnh đói nghèo cho gia đình. Tôi biết chắc chắn nửa con heo rừng ấy là mồi thừa của cọp. Thế nào ổng cũng trở lại tìm mồi. Khi phát giác mồi bị mất là ngài biết khu vực hoạt động của ngài đang có đối thủ tranh giành. Ðêm nay mình thay phiên nhau canh thức. Nếu phát giác ngài đến phải báo động hết cả tổ thức dậy khua động và hò hét để ngài bỏ đi. Qua được đêm nay, ngày mai mình phải di chuyển đến khu vực khác may ra thoát khỏi sự báo thù.

Ðông cảm thấy mình có lỗi đã gây ra sự phiền lụy cho người khác nên tình nguyện thức suốt đêm canh chừng để anh em ngủ lấy lại sức. Nhưng ông Lương bảo:

- Cậu là người đi rừng đầu tiên, không biết những điều cấm kỵ. Chúng ta đã coi là anh em kết nghĩa sống chết có nhau, gặp nạn cùng chia, gặp may cùng hưởng. Vì vậy, sau phiên cậu đến Phận thức canh rồi kêu tôi dậy và sau cùng là anh Thí.

Ngọn lửa bùng cháy hừng hực vây kín miệng hang đá. Ðông ngồi ngoài miệng hang, tay thủ sẵn cây rựa. Hắn nghĩ đến phản ứng của Thí khi nhìn thấy đầu heo rừng lúc ban chiều có vẽ quá đáng đã khiến cho Ðông bất bình. Nhưng khi nhìn thấy mặt anh méo xệch, da tái xanh vì hoảng sợ thì Ðông chợt nhận thức được một tai họa có thực đang chực chờ. Nhìn qua ngọn lửa, bóng tối rừng sâu vây quanh đen nghịt, cây cối phủ kín cả bầu trời, Ðông mới thấy con người thật nhỏ nhoi trong cảnh u u minh minh trùng điệp của thiên nhiên. Chàng bây giờ có khác gì con sâu, cái kiến bên bờ vực thẳm của sự bất trắc. Vì cuộc sống quá cơ hàn mà con người sẵn sàng đương đầu với thú dữ, bệnh tật để giải thoát cảnh tăm tối, lầm than, đớn hèn.

Tiếng chim cú não nùng chợt vang lên từ vòm cây trên đầu rồi vỗ cánh bay, khiến ý nghĩ miên man của Ðông ngưng lại. Chàng phóng tầm mắt nhìn qua bức tường lửa, bỗng hai đốm sáng như hai chiếc đèn pin màu xanh pha đỏ từ ngoài rọi vào hang đá. Thoạt nhìn, giống như mắt của loài chó trong bóng đêm nhìn vào chiếc đèn xe. Hai đốm sáng đứng yên một chỗ khiến chàng đâm nghi, lạnh cả xương sống bèn vỗ nhẹ ông Lương dậy. Ðông chỉ hai đốm sáng trong lùm cây bên kia tường lửa cho ông xem. Ông Lương giật mình bảo thầm: “Ngài đến rồi” bèn gọi mọi người thức dậy vừa khua động xoong nồi vừa la ó. Một hồi lâu sau đốm sáng vụt biến mất. Từ lúc đó, cả bốn người cầm rựa ở thế thủ ngồi chờ sẵn sàng chống trả một khi hổ vượt tường lửa tấn công vào hang đá.

Chờ cho ánh sáng ban mai xuyên thủng rừng già, ba người mới xuống suối bảo vệ cho Ðông lấy nước về nấu cơm. Ăn uống xong, tổ điệu cắt rừng đi qua ngã khác. Dù cao tuổi nhất trong bọn nhưng ông Lương rất tháo vát và tỏ ra thành thạo trong việc tìm hướng đi. Không ai biết quá khứ của ông, riêng Ðông thì rõ lắm nhưng giữ kín trong lòng: “Một thời mạo hiểm nơi núi thẳm rừng sâu của lực lượng Biệt kích”.

Ðường đi vô cùng hiểm hóc lên dốc xuống đèo. Ði được nửa ngày đường, chẳng may Ðông trượt chân rơi xuống một cái hố sâu đầy dây leo chằng chịt. Mọi người nhanh chân trèo xuống hố phát quang bụi rậm cứu Ðông. Bất ngờ, Thí phát giác cây dó cụt ngọn nằm trong đám dây leo dày đặc như tấm lưới phủ lên trên. Không chần chờ phút giây nào, cả bốn người xông vào, kẻ chặt người kéo đám dây leo lẫn gai mây. Thí vào được bên trong lùm gai, đẽo gọt một lúc khá lâu khiến cho ba người đứng bên ngoài hồi hộp đợi chờ. Chợt, từ trong bụi rậm tiếng Thí vang lên ngắt quãng, tắc nghẹn trong cổ họng:

- Trầm... dách... bà... con ơi!

Mọi người như nín thở, ôm chầm lấy nhau nghẹn ngào. Nỗi vui mừng không ngăn được dòng lệ. Nhìn vào bên trong, Thí cũng đang ôm cây trầm mà khóc. Hương trầm như thần dược vực lại sức mạnh cho mọi người trong những ngày khổ cực vừa qua.

Sáng ngày hôm sau toán điệu quyết định trổ (quay về) với hai ba lô trầm loại dách. Số trầm nầy giấu kín, chỉ bán các loại thường cho công ty dược. Mỗi người chia nhau đồng đều được bốn cây vàng. Ông Lương từ chối nhận lại tiền chi phí mua sắm ban đầu.

Suốt mười bốn ngày lên núi tìm trầm, mẹ Ðông ở nhà mất ăn mất ngủ. Ngày Ðông trở về bà rưng rưng nước mắt than thở:

- Ba Me chỉ có mình con. Lặn lội trong chốn rừng thiêng núi thẳm có ngày bỏ mạng. Ăn của rừng trả lại cho rừng. Con dùng số vàng mồ hôi nước mắt đó lo đút lót cho bọn quan lại nhà nó từ địa phương cho đến huyện tỉnh bằng mọi cách để được chuyển hộ khẩu vào đại học.

* * *

Toán điệu của ông Lương giờ chỉ còn có ba người. Thí giới thiệu một người ở cùng quê để thế chân Ðông nhưng ông Lương nhất định giữ nguyên ba người, ông giải thích:

- Anh em mình đã ăn thề kết nghĩa, mừng cho Ðông nay đã vào được đại học. Chúng ta có ba người thì làm việc theo kiểu ba người. Dù không được toại nguyện nhưng Thí chẳng có phản ứng gì.

Họ lên đường vào ngày đầu mùa Hạ mà trời lại âm u, không khí ngột ngạt, oi bức. Lần nầy họ tiến thẳng đến khu rừng Ba xa, cách địa điểm trúng trầm đợt trước khoảng một ngày đường. Người ta đồn đãi khu rừng nầy có con hổ ba chân dữ dằn lắm. Trước kia nó thường hay xuống làng Thượng bắt heo của người sắc tộc. Một hôm bị mắc bẫy, hổ tự cắn đứt chân của nó để thoát thân. Ông Lương chần chừ nhưng Thí đốc thúc phải đến đó mới hy vọng có cơ hội được trầm. Những toán điệu khác vì sợ hổ không dám vào.
Quả vậy, khu rừng nầy có rất nhiều cây dó đại thụ, cao bốn năm chục mét. Chứng tỏ chưa có chân điệu nào vào đây. Mất mấy ngày xẻ thịt cây dó già nhất mà trầm chỉ ăn trên các cành cây gãy còn trong giữa thân cây chỉ mới xuất hiện những chuôi trầm mỏng như những mảnh vải đen. Ông Lương đề nghị chuyển qua vùng khác nhưng Thí thấy tiếc rẻ khu vực nầy. Giác quan nhạy bén của người tìm trầm lâu năm cho anh cảm nhận được sự hiện hữu của trầm quanh quẩn đâu đây. Có điều gì đó cứ vấn vít bên anh. Một mùi hương rất lạ thỉnh thoảng thoáng qua mà anh bắt gặp chẳng những bằng khứu giác mà cả linh cảm. Một mùi hương quyến rũ lúc hiện ra, lúc biến mất như một linh hồn mà suốt mười năm tìm trầm anh chưa hề nhận biết. Nó không nồng nặc mà chỉ thoáng qua, thanh thoát, ngây ngất. Ông Lương và Phận không cảm nhận được điều Thí mô tả mà chỉ nghe mùi cây dó tươi vừa mới bửa ra. Suốt cả ngày hôm đó Thí cứ thẫn thờ như người mất của quý.

Sáng hôm sau, anh ra phía sau bụi rậm làm cái “công việc vệ sinh” hàng ngày. Trước mặt anh là một lùm dây mây rậm rạp, nhìn sâu vào trong anh thấy một đoạn cây mục ló đầu ra. Dùng chân khượi khượi cho phần gỗ mục rớt ra, anh giật mình kêu lên:

- “Trầm!”

Ông Lương và Phận đang ở trong lều nghe tiếng “Trầm” liền tốc áo mưa chạy ra. Họ cấp tốc phát quang bụi dây mây sợi to bằng cổ tay bao phủ cả một vùng. Mấy giờ liền, ba người làm việc cật lực mới khai phá được một lối vào. Phủ lên thân cây mục là một ụ mối như nấm mộ. Họ cào sạch phần trên ụ mối, chợt mọi người giật mình thất kinh. Hiện ra trước mặt họ là bộ xương người. Hai xương cánh tay ôm lấy gộc trầm. Gỡ gộc trầm ra khỏi cánh xương tay, Thí dựng đứng nó lên lấy rựa vạt sạch lớp mối ăn bên ngoài. Bỗng, Thí thảng thốt kêu lên: “Kỳ nam”. Ông Lương có vẻ đăm chiêu, còn Phận thì không kìm được đôi chân đang run rẩy từ nãy đến giờ.

Họ đào hố chôn bộ xương. Ðiều kỳ lạ là bộ xương người chết tỏa ra hương trầm thơm ngát. Ông Lương lấy một mảnh vỡ kỳ nam đặt vào mộ. Trước khi rời khu vực họ đốt trầm xông trên ngôi mộ rồi cắt rừng trở về. Chuyến đi trúng được mẻ lớn nhưng ba người đều có ba ý nghĩ khác nhau. Phần Thí suy tính công của mình mà phải chia đều thì uất thật. Ông Lương cho rằng mình hưởng tài sản trên xác của người chết chẳng vui sướng gì. Còn Phận thì bộ xương người cứ ám ảnh nên trông cho mau đến nhà.

Trên đường về, trong lòng Thí cứ phân vân. Nửa muốn đòi chia cho mình một phần hai số trầm kỳ nam, nhưng sợ hai người kia phản đối, nửa muốn lén tách đi đường khác để giữ phần mình một ba lô đầy. Sau nầy có tranh chấp thì chẳng làm được gì mình. Ðường đi qua một cái đèo cây cối um tùm, Thí bắt đầu đi chậm lại tìm lối rẽ theo ý định sau cùng. Ông Lương nhắc nhở hai người đi sau cẩn thận, phải đi sát vào nhau. Câu nói vừa dứt bỗng, một tiếng ào phát ra rồi một bóng dài lướt qua. Con cọp ba chân đang ngậm cổ kéo xác một người về hướng chân đèo. Ông quay đầu nhìn ra sau, Phận như người chết đứng, gương mặt không còn một giọt máu. Một khoảng cách khá xa phía sau là chiếc ba lô trầm của Thí rớt lại trên lối đi. Ông Lương đứng nhìn theo hướng con hổ lòng đau như cắt. Lần đầu tiên Phận thấy người đàn ông cứng cỏi và dày dạn nầy đã để rơi những giọt nước mắt.

Số trầm mang về bán được ba mươi sáu cây vàng. Vì là công của Thí nên ông Lương quyết định chia cho Phụng, vợ Trần Văn Thí một nửa là mười tám cây làm vốn, lấy thêm hai cây bỏ vào ngân hàng cho đứa con gái ba tuổi của Thí. Số còn lại là mười sáu cây, ông Lương và Phận chia đều. Phận rất thán phục sự ngay thẳng, công minh và tấm lòng nhân hậu của ông Lương. Hai người cùng vào tận Tuy Hòa để thông báo tin buồn cho vợ Thí. Nàng đã vật vã khóc than đau đớn tận cùng. Với số vàng mười tám cây đó, ông Lương hứa sẽ giúp nàng xây dựng một tiệm buôn bán tạp hóa để nuôi con.

*****

Thời gian thấm thoát trôi qua, Ðông miệt mài trên ghế đại học suốt bốn năm. Sau khi làm lễ tốt nghiệp mãn khóa, Ðông đón xe về quê thăm gia đình. Chiếc xe liên tỉnh đến bến Tuy Hòa bị hỏng máy. Hành khách phải đợi chờ khá lâu để thay hộp số xe bị bể. Nhân dịp nầy Ðông tìm đến nhà Thí. Căn nhà mà ngày trước chàng và ông Lương đã tìm đến đây mời Thí tham gia vào tổ tìm trầm nay đã là một cửa hiệu bán tạp hóa khá khang trang. Ðông qua lại, nhìn vào nhà vài ba lượt, rồi bỏ đi. Chợt có tiếng gọi “Ðông”, chàng quay lại, thấy một người đàn ông trên tay bồng một đứa bé đứng sau quầy hàng.

- Chú Lương! chú vào đây bao giờ? Ðông mừng rỡ kêu lên.

Ông Lương đưa bàn tay chắc nịch bắt tay Ðông rồi mời chàng ngồi xuống chiếc ghế đẩu. Ông vừa ru đứa bé vác trên vai vừa nhìn chàng trả lời:

- Tôi vào ở luôn trong nầy đã hơn một năm nay.

- Thế anh Thí đâu?

- Thí đã mất cách đây bốn năm, bị cọp vồ trong chuyến đi trầm ba người, sau khi cậu vào đại học.

Rồi ông Lương kể tóm lược chuyến đi trầm cuối cùng như đã ghi lại ở phần trên.

Bỗng thằng bé cựa mình thức giấc, ông vỗ vỗ vào lưng nó ru:

“Mây mưa mấy giọt chung tình.

Ðỉnh trầm hương khóa một cành mẫu đơn.”

Hai câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều, ông Lương vừa ru nghe thật xót xa và cũng đầy ý nghĩa.

Thằng bé nằm yên trên vai, ông Lương ngỏ lời:

- Hôm nay là ngày kỵ của Thí, vợ chồng tôi mời cậu ở lại dùng cơm để có dịp chú cháu mình tâm sự. Cậu độ nầy trông chững chạc và rắn rỏi lắm.

Chị Phụng từ nhà trong bước ra thấy Ðông, đứng khựng lại. Ông Lương liền giới thiệu:

- Ðây là Ðông, cậu ấy đi trầm chuyến đầu tiên với ba con Thúy, nhưng sau đó cậu được vào đại học ở Sài Gòn. Trên đường về quê cậu ghé thăm em. Phụng cúi đầu chào rồi rót nước mời Ðông.

- Nhân tiện xin phép chị cho em thắp cúng anh Thí nén hương.

Ðông ngỏ lời.

Phụng vồn vã đưa Ðông lên căn gác lỡ. Bàn thờ của anh Thí đặt giữa phòng vừa đường bệ vừa trang nghiêm. Khói trầm màu xám xanh mong manh như sợi tơ quyện lấy tấm ảnh bán thân của anh Thí đặt sau bộ tam sự. Hương trầm xông lên thơm ngát, một mùi thơm thanh khiết, dịu nhẹ khiến cho con người lâng lâng rơi vào trạng thái thâm nghiêm, trầm mặc. Bên di ảnh của anh Thí là tượng con hổ ba chân được khắc rất nghệ thuật bằng lõi trầm kỳ nam.

Chị phụng cầm ba cây nhang từ tay Ðông cắm vào bình, Chị nói:

- Tượng con hổ đó là do anh Lương mướn thợ điêu khắc tận Sài Gòn bằng chính gộc trầm do anh Thí tìm thấy để chị nhớ mãi ngày anh Thí bị nó vồ. Sau khi anh Thí mất, nếu không nhờ sự giúp đỡ của anh Lương, không biết đời chị và cháu Thúy sẽ trôi nổi ra sao. Trên đời nầy rất khó kiếm được người như anh Lương, tháo vát trong cuộc sống lại hiền hòa và bao dung. Chị thương anh ấy, dù tuổi đời có chênh lệch đôi chút. Anh sống như người tu hành từ sau ngày Bảy lăm. Chị nghĩ có lẽ hồn thiêng của anh Thí đã khiến chị lấy anh Lương để ngày nay có được mụn con trai mà thuở sinh tiền cha mẹ chị ước ao.

Sợ chiếc xe khách bỏ lại, Ðông vội vàng từ biệt ra bến xe mặc dù vợ chồng ông Lương cố nài chàng ở lại. Ngồi trên xe, chợt lòng Ðông bùi ngùi nhớ lại lời anh Thí như còn văng vẳng bên tai:

“Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”.
Xe chạy bon bon trên quốc lộ 1. Tiếng máy xe nổ đều đều đưa Ðông vào cơn mê thiếp. Chàng mơ thấy anh Thí gương mặt tái xanh đăm đăm nhìn Ðông rồi thốt lên:
“Trời ơi, cậu cướp mồi của Ngài, làm sao tránh khỏi báo thù!”

Bất chợt hương trầm kỳ nam tỏa thơm nồng. Mùi hương ma quái phủ ngập cả giấc mơ khiến Ðông choàng tỉnh. Lồng ngực chàng nghe nặng trĩu và hương trầm còn thoang thoảng đâu đây./.

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét