Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2022

DIỆT CHỦNG TÂY TẠNG, CẢNH BÁO MUỘN QUÁ CHO VIỆT NAM ??? - MƯỜNG GIANG



(NHẮN GỬI MỘT SỐ DÂN VIỆT ĐANG NGỦ MÊ !!!)
Hiểu rõ về sự dã man bạo tàn của giặc Tàu, chắc chắn trên thế giới không ai hơn được dân tộc Việt vì đã ba lần bị Bắc thuộc kéo dài hằng ngàn năm và mới nhất từ năm 1950 tới nay, do HCM và đảng CSVN rước về. Ðầu xuân năm Quý Mão (+43), Hai Bà Trưng bị Mã Viện đánh bại phải trầm mình tại Hát Giang, Từ đó Giao Châu lại trở thành một quận huyện của nhà Hán, người Lạc Việt bị đày đoạ dầy xéo bạo tàn. Ðể diệt chủng nước ta, thái thú Mã Viện thi hành chính sách “Hán Hóa Người Việt”, ra lệnh tịch thu tất cả những đồ kim khí và đúc thành “Cột Ðồng Mã Viện” với lời răn đe khả ố “Ðồng Trụ Chiết, Giao Chỉ Diệt”.
<!>
Ðầu thế kỷ thứ XV, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần khiến lòng người bất phục nổi lên chống đối khắp nơi. Giặc Minh lợi dụng Trần Thiểm Bình sang cầu cứu nên đem quân chiếm nước ta hơn 10 năm. Ðể răn đe người Việt đang nổi lên theo Bình Ðịnh Vương Lê Lợi kháng chiến chống Tàu, vua nhà Minh đã hăm doạ “Ðồng Trụ Chi Kim Ðài Dĩ Lục : Cột Ðồng Ðến Nay Rêu Còn Xanh” Nhưng đã bị người Việt chơi xỏ “Ðằng Giang Tự Cổ Huyết Do Hồng : Sông Ðằng Từ Xưa Máu Vẫn Ðỏ”.

Từ xưa tới nay cột đồng hay bia đá đều bị mòn, bị mất . Chỉ có Bia Miệng thì vĩnh viễn không ai có thể bịt được, nên dân gian mới có câu “trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”.

Với bản chất thực dân từ ngàn đời, người Hán dù đã bị rất nhiều luân hồi nghiệp chướng gần như suốt dòng lịch sử. Thế nhưng khi đắc ý vẫn không chừa cái thói cũ, bởi vậy năm 1949 ngay khi chiếm xong lục địa, Trung Cộng đã lộ ngay nanh vuốt thực dân qua hành động xâm lăng thôn tính các dân tộc nhược tiểu, để bành trướng lãnh thổ và thế lực. Năm 1950 Tân Cương, Nội Mông và Tây Tạng bị cưỡng bức thành các vùng “tự trị của Tàu”, khi cả thế giới đang chú tâm vào cuộc chiến tại bán đảo Triều Tiên, không ai để ý tới hành động xâm lăng trắng trợn này đủ. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14, vị lãnh đạo tinh thần và thế tục của Dân Tộc Tây Tạng vào năm 1959 được CIA giải thoát. Từ đó Ngài sống lưu vong tại Ấn Ðộ, mòn gót khắp các nẻo đường thế giới, tìm phương tiện và hậu thuẫn giải thoát cho Dân tộc, Đất nước mình khỏi gông cùm nô lệ Tàu đỏ.

1- TÂY TẠNG HUYỀN BÍ VÀ VÔ ƯU :

Trước khi bị Tàu đỏ cưỡng đoạt bằng vũ lực, Tây Tạng (Tibet) là một quốc gia độc lập lâu đời tại Trung Á. Ðây là một vùng đất quanh năm suốt tháng tuyết phủ vạn niên, được coi như nóc nhà của thế giới có độ cao hơn mặt biển # 4.800m. Sát biên giới phía nam lại có đỉnh núi Everest cao ngất từng xanh 8.848m. Ðây là miền đất bao đời được coi như vô ưu vì người Tạng luôn khép kín không tranh dành với thế giới, một vùng đất mang nhiều huyền bí tới nay vẫn không mấy người biết được.

Tây Tạng có diện tích 1.228.600 km2 (gần 1/8 Trung Cộng), dân số trên 6 triệu người (chỉ # 1/240 Trung Cộng) theo Phật Giáo Mật Tông (Kim Cương Thừa), bắc giáp Tân Cương, đông tiếp cận các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên, Vân Nam. Phiá tây nam có chung biên giới với Ấn Ðộ, Nepal, Bhutan, Miến Ðiện. Thủ phủ là Lhasa, thành phố lớn nhất nước. Ðược bao bọc bốn bề núi non hùng vỹ, nam có dãy Hymalaya, tây có dãy Karakoram, bắc có núi Côn Luân (Kunlun). Tây Tạng được coi như là vùng đất hẻo lánh nhất hoàn cầu.

Theo các nhà địa chất học, qua các dấu vết trầm tích lưu lại người ta có thể phỏng đoán # 40 triệu năm trước đây vùng này vốn nằm sâu trong lòng biển cả. Sau đó vì các trận động đất do các lục địa va chạm nhau, tạo thành dãy Hymalaya và cao nguyên Tây Tạng. Hiện tại nhiều hồ nước ở đây còn để lại vô số xác động vật biển đã hóa thạch. Ðây là vùng mật độ dân số thưa thớt nhất trong đế quốc Tàu đỏ, nơi phát xuất nhiều con sông lớn của Châu Á như Hằng Hà, Ấn Hà (Ấn Ðộ), Mekong, Hoàng Hà, Dương Tử…

+ LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC TÂY TẠNG :

Khu vực A Lý ở Tây Tạng ngày nay là một vùng đất hẻo lánh nhưng hơn ngàn năm trước lại là cương vực của một vương quốc hùng mạnh, có một nền Phật Giáo cực thịnh, tới đầu thế kỷ XVII mới bị diệt vong.

Hiện tất cả các di chỉ của vương quốc Cổ Cách vẫn được lưu giữ tại Huyện Thành Thát Ðạt, trên độ cao 3.700m, diện tích 22.500 km2. Thành quách cổ được tìm thấy ở bờ nam sông Tương Tuyền, trên núi Hoàng Thổ cao # 300m, cách huyện lỵ khoảng 18 km, nay đã hoang tàn trơ gan cùng tuế nguyệt. Vùng này trước thế kỷ thứ VII (Sau TL) là một phần lãnh thổ phía đông nước Tượng Hùng rộng lớn, đã trải qua 18 đời vua. Vào thế kỷ thứ VII (sau TL), Tượng Hùng bị Thổ Phồn thôn tính, đến thế kỷ thứ IX thì trở nên suy yếu vì sự xung đột tranh giành quyền lực giữa Tập Ðoàn Tăng Lữ Phật Giáo và Quý Tộc. Cuối cùng Lang Ðạt Ma gây cuộc chính biến, đoạt quyền vua, thẳng tay “Hủy Phật, diệt Pháp” đốt kinh sách, phá hũy chùa chiền, giết hại tăng lữ… khiến ai cũng căm thù oán hận, các tín đồ Phật giáo đã nhất tề chống lại nên Lang Đạt Ma bị tiêu diệt.

Nhưng tình hình vừa yên thì vương thất Thổ Phồn bắt đầu xâu xé giành giựt quyền lực, cộng thêm tệ nạn nô lệ, khiến cho vương triều này tan rã. Thời gian này, con cháu của Lang Ðạt Ma lại đứng lên lãnh đạo dân chúng, men theo dòng sông Nhã Lỗ Tạng Bố về hướng Thát Dạt. Ở đây Ðức Tổ, con của Lang Ðạt Ma thành lập vương quốc Cổ Cách, từ đó cho tới khi bị diệt vong, đã chiếm một địa vị rất quan trọng trong lịch sử Tây Tạng, suốt thời kỳ nội chiến phân liệt kéo dài gần 400 năm, sau khi Thổ Phồn bị tiêu diệt.

Ðây là vương quốc lấy Phật Giáo làm Quốc Giáo. Hoàng tử thứ hai của nhà vua đã xuất gia tu hành, hoằng dương Phật Pháp, sau này trở thành một vị cao tăng nổi tiếng của Tây Tạng. Nhà vua còn mời các vị cao tăng Phật giáo từ Ấn Ðộ sang thuyết pháp, giúp Phật Giáo Cổ Cách và Tây Tạng càng lúc càng cực thịnh. Năm 1624 một tu sĩ Bồ Ðào Nha tên Anderla vào tận vương quốc, được quốc vương lẫn hoàng hậu trọng dụng, cho phép truyền đạo Thiên Chúa và thiết lập giáo đường đầu tiên ở Tây Tạng. Việc này đã làm dân chúng phẩn nộ cùng với các vị Lạt Ma đứng dậy năm 1635, lật đổ quốc vương, triệt hạ giáo đường và trục xuất các nhà truyền đạo Thiên Chúa ra khỏi Tây Tạng. Vương quốc Cổ Cánh cũng bị tiêu diệt sau 700 tồn tại.

Nói chung Tây Tạng từ thế kỷ thứ VII (sau TL), mới bắt đầu giao tiếp với người Hán ở phía đông và các nước láng giềng khác để giao thương và trao đổi văn hóa. Từ năm 710 về sau, thời vua Tride Zhotsan, Phật giáo chính thức trở thành quốc giáo của Tây Tạng. Thời vua Trison Detsen (755-779) Tây Tạng xua quân chiếm nhiều đất đai phía tây của Trung Hoa. Năm 763 thời mạt Ðường, kinh đô Tràng An trong tỉnh Thiểm Tây bị Tây Tạng chiếm, khiến người Tàu phải triều cống Tây Tạng, đồng thời hai bên ký hiệp ước phân định biên giới từ đó. Thế kỷ XIII Mông Cổ xâm chiếm và đô hộ Tây Tạng, chia nước này thành nhiều khu vực để cai trị. Thời nhà Minh (1368-1644) vẫn duy trì chính sách chia để trị tại Tây Tạng, làm cho quốc gia này càng lúc càng suy yếu. Nhà Thanh (1644-1911) thay đổi chính sách cai trị Tây Tạng, ban phát nhiều quyền hành cho các vị Ðại Lạt Lạt Ma coi như là vị lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng.

Ngoài cái nạn bị Hán tộc và Mông Cổ xâm lăng đô hộ,Tây Tạng còn bị Ấn Ðộ và Nepal xâm lăng nhiều lần. Tới thế kỷ XIX thực dân Anh sau khi chiếm được Ấn Ðộ, Miến Ðiện và A Phú Hản, bắt đầu xâm nhập Xứ Tuyết vào năm 1903 nhưng vì không chịu nổi thời tiết khắc nghiệt và sự đối kháng của nghĩa quân, nên đã bỏ Tây Tạng, sau khi đã ký một hiệp ứớc với nhà Thanh không can thiệp vào nội bộ của nước này nữa.

Năm 1914 bắt đầu đệ nhất thế chiến, thực dân Anh lại dòm ngó Tây Tạng, mở hội nghị tại Ấn Ðộ, đòi chia nước này thành hai phần, một nữa giao cho Tàu, phần kia thuôc Anh nhưng bị thất bại. Năm 1949 Trung Cộng chiếm được lục dịa Trung Hoa, tháng 10 cùng năm Mao Trạch Ðông xua 80.000 Hồng quân tấn công và cưỡng chiếm nước này, sáp nhập vào đế quốc đỏ tới ngày nay.

+ CIA VÀ CUỘC LƯU VONG CỦA ÐỨC ÐẠT LAI LẠT MA :

Trong bài viết “The Very Best Men” của Evan Thomas, phụ tá chủ bút tờ Newsweek đã từng kể rõ việc CIA giải thoát Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 bị Tàu Cộng giam lỏng tại Lhasa, trốn khỏi Tây Tạng năm 1959, sau gần 10 năm bị Trung Cộng xâm chiếm từ tháng 10-1949. Người phụ trách kế hoạch là Tony Poshepny, bí danh Tony Poe. Câu chuyện trên, lại được đăng trên tạp chí George của con trai cố tổng thống J.Kennedy nhân kỷ niệm 50 năm thành lập CIA. Nhờ tài liệu trên, ta mới biết hơn 50 năm qua Hoa Kỳ đã thực hiện nhiều điệp vụ tại Tây Tạng, từ việc giải thoát Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, tới việc cung cấp vũ khí cho quân du kích Tạng chống tại Tàu đỏ. Sau này dù tình trạng bang giao giữa Mỹ-Hoa đã cải thiện, khi chiến tranh lạnh tạm kết thúc, nhưng Hoa Kỳ vẫn duy trì hoạt động tình báo của mình.

Ngày 17-3-1959 lợi dụng đêm tối trời không trăng, Ðạt Lai Lạt Ma đã cùng với đoàn tùy tùng 20 người trốn khỏi cung điện tại Lhasa. Ðoàn người lại tăng dần lên tới cả trăm, được chỉ huy bởi một điệp viên CIA, với nhiệm vụ liên lạc bằng vô tuyến để báo cáo với cấp trên. Ðiều này cũng dễ hiểu vì ngay khi Trung Cộng chiếm cứ Tây Tạng tháng 10-1949, thì từ đầu năm 1950, CIA đã bí mật can thiệp. Họ cung cấp vũ khí cho bộ tộc Khang Ba tại Tây Tạng đang tiếp tục chiến đấu chống Tàu đỏ. Trong thời gian này Hoa Kỳ thuê mướn nhiều phi cơ dân sự của Miến Ðiện, Thái Lan và Ðài Loan… bay tới vùng Hymalaya để cung cấp thêm hay thay đổi vũ khí đạn dược, thực phẩm, thuốc men cho Nghĩa Quân Tạng.

Gia Lạc là thủ lãnh của kháng chiến quân, là anh ruột của vị Ðạt Lai Lạt Ma đương thời đang bị Tàu Cộng giam lỏng tại Lhasa, nên mới móc nối được với Ngài để tổ chức cuộc giải thoát đầy nguy hiểm như huyền thoại. Lúc 3 giờ sáng ngày 28-3-1959, đoàn người vượt thoát mới tới được Thiết Lạp Khâu ở biên giới. Tại đây Poe liên lạc về trụ sở của CIA ở Miến Ðiện và cơ quan này lập tức trình về Tổng Thống Eisenhower. Từ đó Hoa Kỳ can thiệp với Ấn Ðộ và Nepal nhường một mãnh đất dưới chân núi Hymalaya, giúp Ðức Ðạt Lai Lạt Ma lập Chính Phủ Tây Tạng Lưu Vong, thủ đô đặt tại thành phố Dharamsala, còn đến ngày nay.

2- PHẬT GIÁO TÂY TẠNG :

Kể từ năm 747, Phật giáo được coi là quốc giáo của Tây Tạng, thời gian này có Ðại sư Padmasambhava là người đầu tiên từ Ấn Ðộ tới thuyết giảng kinh sách. Tuy nhiên Phật giáo Tây Tạng vẫn có nhiều khác biệt với Phật giáo Ấn Ðộ, nên được gọi là Mật Tông Giáo. Cả nước có hơn 16.000 thiền viện. Danh xưng Ðạt Lai Lạt Ma (Đại Sư có biển kiến thức) được chính Thành Cát Tư Hãn ban tặng, vì ngưỡng mộ vị Đại Sư Tây Tạng lúc đó, và được sử dụng cho tới ngày nay.

Ðạt Lai Lạt Ma là những vị lãnh tụ tinh thần của người Tây Tạng, chính là những hậu kiếp của Đức Phật sau khi đã đầu thai qua một vòng luân hồi (Samsara). Người ta dựa vào những lời trăn trối cuối cùng của vị Lạt Ma tiền nhiệm, các dấu hiệu đặc biệt, hoặc kiến thức ký ức bí ẩn của chính đứa trẻ kỳ lạ, tìm ra đứa trẻ mới lớn, được coi là hậu kiếp của vị Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm nào đó, để lập lên vị Ðạt Lai Lạt Ma kế tiếp.

Theo Phật sử Tây Tạng, Ðại Sư Sonam Gyatso, Viện trưởng tu viện Drepung là người đầu tiên được ban danh xưng Ðạt Lai Lạt Ma, đồng thời ngài cũng là chưởng môn của giáo phái Gelugpa (Mũ vàng). Ðạt Lai Lạt Ma thứ 6 là một Ðại sư người Mông Cổ tên Gushri được thụ phong năm 1642. Chính Ngài đã lập ra thể chế thần quyền để lãnh đạo Tây Tạng, như một chư hầu của Trung Hoa kể từ năm 1720.

Hiện tại Tây Tạng được Ðại Sư Tenzin Gyatso lãnh đạo, là Ðại Lai Lạt Ma thứ 14 của nước này, dù Ngài đã lưu vong từ năm 1959 tại Ấn Ðộ. Là người tài đức, thông minh, với tấm lòng vị tha nhân ái của một Phật Tử, cộng với một tầm tư tưởng gần như quán tuyệt, Ngài đã được giải Nobel Hoà Bình năm 1989. Ngài đã viết tác phẩm nổi tiếng “Violence and Compassion : Bạo lực và tình thương“.

Tuy nhiên chính nữ ký giả người Pháp Alexandra David Neel mới là người đã đưa Tây Tạng huyền bí đến với ánh sáng nhân loại. Năm 1924, cô một mình trèo non lội suối tìm tới thủ phủ Lhasa, nhờ vậy đã ghi lại cuộc sống thần bí của các vị sư, kể cả dân thường, giúp thế giới phần nào biết về một đất nước coi như cô lập hằng ngàn năm giữa băng tuyết. Ngoài ra còn có Ðại Sư Tây Tạng Lobsang Rampa, ông đã ghi lại sự huyền bí của đất nước mình, qua hồi ký “The Rampa Story” đã cuốn hút thế giới bên ngoài. Tác phẩm trên đã được nhà văn nổi tiếng hải ngoại là Nguyên Phong, phóng tác thành “Tây Tạng Huyền Bí”.

Ðạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso dù bị kết tội là “nổi loạn” (chống lại Mông Cổ và Thanh triều) nhưng lại là một huyền thoại của xứ tuyết. Mất tích vào năm 33 tuổi trên đường lưu đày nhưng tới nay những tình ca của ông để lại đã trở thành những bản dân ca nổi tiếng, được lưu truyền khắp hang cùng ngỏ hẹp của Tây Tạng. Là người yêu nước, Ngài đã từ khước quyền lực tối cao của một vị lãnh tụ tinh thần, để chống lại Mông Cỗ lẫn nhà Thanh đang đàn áp cai trị đất nước mình. Ðây là một bài thơ tiêu biểu của vị Lạt Ma thứ VI, bày tỏ nổi tuyệt vọng của non sông, đưọc viết năm 1706 khi bị quân Mông Cổ bắt ra khỏi điện Potala :

Hạc trắng ơi hạc trắng
Cho ta mượn cánh nào
Ta chẳng bay xa đâu
Ðến Lithang ta sẽ quay về…

Hằng ngàn năm nay, Tây Tạng vẫn là một địa danh mênh mông đầy huyền bí với không biết bao nhiêu chuyện lạ lùng, nhìn vào cứ tưởng là thần thoại, từ những bức tranh vẽ cảnh “Phật Hoan Lạc” tới các Tạng Kinh kỳ lạ. Từ Lễ Hội Sữa Chua truyền thống tới Thiên Táng (điểu táng) là một trong những câu chuyện thần bí rùng rợn nhất trần gian, nhưng đối với người Tây Tạng, thì đó lại là một phương cách thần kỳ nhờ chim ưng đưa linh hồn người chết về nơi cực lạc.

Phật giáo là quốc giáo của Tây Tạng, trong đó Tạng kinh được coi như là một tổng hợp nghệ thuật chứa đựng văn học, vũ đạo, âm nhạc, nghệ thuật. Riêng Tạng Kịch còn được gọi là “A Giả Lạp Mẫu”, một nghệ thuật độc đáo của người Tạng mà diễn viên toàn là phụ nữ đeo mặt nạ khi biểu diễn, vừa ca hát vừa làm điệu bộ với nhiều động tác biểu hiện các sinh hoạt cuộc sống hàng ngày.

Ở đây còn được trưng bày nhiều tác phẩm điêu khắc rất kỳ lạ, diễn tả cảnh giao hoan của đôi nam nữ, được gọi chung là “Song Thần Hoan Hĩ Phật”. Ai cũng biết nhà Phật cấm sát sinh, trộm cắp, vọng ngữ, dâm dật… tại sao lại thờ bức tượng trên ? Thật sự, đây chỉ là một trong những phương thức tu trì của Mật Tông, một hệ phái Phật giáo Ấn Ðộ được truyền vào đất Tạng vào thế kỷ thứ VIII. Hình thức “Song thần hoan hĩ Phật” là nấc cao nhất của Mật Tông, được các vị cao tăng sử dụng, khi dùng tình dục để khắc chế tình dục, lấy luân hồi sinh tử để thuần hóa sự sống chết. Bởi vậy khi luyện tập, chúng tăng dùng khí công Yoga và nhờ “Song Tu Thần Pháp : ôm người bạn nữ” trong vòng tay, tạo sự hoan lạc trong chớp mắt, để đạt tới cảnh giới “bất sinh bất tử, trường sinh bất lão”. Ðó là giai đoạn chứng giác thành Phật.

Là một dân tộc sùng kính Phật giáo tuyệt đối, nên tất cả những lễ hội truyền thống của người Tạng đều liên quan tới cửa Phật. Lễ hội “Sữa Chua : Sorton” hằng năm diễn ra vào mùa hè tại Tu viện Drepung gần thủ đô Lhasa, nhắc nhớ lại “những bát sữa chua” năm nào của những người thợ săn kính biếu các vị sư sãi trong chùa, một ngôi cổ tự được xây dựng từ thế kỷ XV, hiện có hơn 300 vi sư đang tu học và trụ trì.

Nhưng kinh khiếp nhất tại Tây Tạng cũng vẫn là Thiên Táng, một nghi thức tôn giáo nhờ Chim Ưng đưa hồn người về miền cực lạc. Theo nghi lễ này, người chết được tắm rữa bằng nước thơm pha bằng các hương liệu thiên nhiên, được bó gặp lại, đầu kẹp giữa hai gối rồi nhét vào một bao bố trắng, đưa tới Đài Thiên táng vào lúc tờ mờ sáng, nhờ chim trời tiêu hũy da thịt.

Thiên Táng Ðài nằm cách Ðạt Mộc Tự về phía đông hơn 300m, tại đây còn để lại nhiều xương cốt người do chim ưng ăn không hết, bốn bề cỏ mọc tới gối. Bên trong chính điện bỏ đầy bố trắng. Gian giữa có hai tầng, phía trên có một tảng đá màu xám nhưng mặt bằng phẳng là nơi phanh thi thể. Ðầu tiên là mổ ruột lấy hết nội tạng ra trước, sau đó mới tùng xẻo, chặt nhỏ xương cốt ra từng mảnh vụn, rồi đem trộn với bột mì rang, vứt cho hàng ngàn chim ưng đói đang chờ sẵn. Tại Tây Tạng hiện có tới 108 thiên táng đài nhưng chỉ có đài ở Ðạt Mộc Tự là dùng Sọ người để xây vách, một ngôi chùa duy nhất toàn cầu, tạo thêm sự huyền bí muôn trùng cho xứ tuyết.

Chùa cổ Ðạt Mộc nơi thực hiện Thiên Táng nằm khoảng giữa Na Khúc và Tì Như, trên đường từ miền bắc cao nguyên Khương Dương đi xuống phía nam, dọc theo con sông Nộ Giang, nay thuộc làng Trà Khúc. Vị sư trụ trì hiện tại là Lạt Ma Ngõa Ðảng Ứng cho biết chùa đã có hơn 1000 năm qua, do chính Ðại Lạt Ma Bạch Mã Bạch Thác xây dựng, theo yêu cầu của người Tạng vùng Nhiệt tây.

Mật Tông du nhập vào đất Tạng và trở thành quốc giáo từ thế kỷ IX. Dựa vào quan niệm “luân hồi sinh tử” theo đó chết chẳng qua là bước chuyển hóa của một giai đoạn kế tiếp mà thôi, từ đó phương thức mai táng người chết cũng thay đổi tùy theo hoàn cảnh xã hội của người chết như : Ðịa Táng, Tháp Táng dành cho các Ðại Lạt Ma và quan quyền, Hỏa Táng cho Lạt Ma và Thiên Táng cho tất cả mọi người.

CÁC TU VIỆN NỔI TIẾNG CỦA TÂY TẠNG :

– Cung Ðiện Potala : Nói đến Tây Tạng là phải nói tới Cung Ðiện bằng vàng Potala, theo tiếng Phạn có nghĩa là “Thánh địa của Quan Thế Âm Bồ Tát”, riêng người Tây Tạng thì quan niệm “đây là nơi tụ tập của các vị thần thánh trên trời”. Cung điện có hơn 10.000 phòng, được khởi đầu xây cất vào thế kỷ thứ VII đời quốc vương Tùng Chất Can Bố. Ban đầu cung điện chỉ có 999 phòng. Đến thế kỷ XVII Ðạt Lai Lạt Ma thứ V trùng tu và mở rộng lên tới 10.000 phòng như hiện nay. Ðây là một công trình kỳ vĩ nhất thế giới, có chiều cao 120m, trải rộng trên một diện tích 360 km2, gồm 13 tầng lầu, mái được mạ vàng. Riêng lễ đăng quang của các vị Lạt Ma, thường được tổ chức tại ngôi đền thiêng liêng Jokhang nằm trong trung tâm thủ phù Lhasa.

Ðiện Potala cũng là nơi phát sinh ra nhiều huyền thoại kỳ bí của người Tây Tạng, từ con số phòng 999 được trang hoàng bằng 1 triệu lượng vàng ròng, cho tới những bí mật bên trong của mỗi căn phòng, được thiết lập sâu trong lòng đất núi. Ngôi đền cũng đánh dấu mối tình sử giữa quốc vương Tùng Chất của Tây Tạng và công chúa Văn Thánh, con vua Ðường Thái Tôn vì nước ngàn dặm ra đi, làm ta chạnh nhớ tới Huyền Trân Công Chúa của Ðại Việt, cũng vì nước mà hy sinh, ngàn năm sử xanh còn lưu dấu.

– Tu Viện Tashilunpo Huyền Bí : Ðây là nơi ở của Ban Thềm Lạt Ma (Panchen Latma), vị lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng đứng vào hàng thứ hai sau Ðạt Lai Lạt Ma. Ðó cũng là một viện bảo tàng nghệ thuật của Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng. Tu viện ở thành phố Xigaze nguyên là cố đô, lớn thứ nhì sau Lhasa. Ðược xây dựng từ năm 1447, trải qua nhiều thế kỷ phát triển, hiện tu viện chiếm một diện tích 18,5 ha với 3.600 phòng và 50 giảng đường, được chạm khắc tinh vi tuyệt đẹp. Trước khi Trung Cộng chiếm Tây Tạng, đây là nơi hoằng dương Phật Pháp của hơn 3.600 vị Lạt Ma nhưng nay chỉ còn # 700 người, phần lớn được đảng chọn và đưa từ lục địa Trung Hoa lên đây tu học để thay dần các vị Lạt Ma Tây Tạng. Phật sống Chiazha Quamba Chili được Tàu đỏ dựng lên trú ngụ tại đây từ lúc 7 tuổi.

Tu viện là một mê cung đầy bóng tối từ phòng ốc, hành lang cho tới các sân lộ thiên. Ánh sáng mặt trời chỉ rọi chiếu tu viện vào lúc bình minh và buổi xế chiều sau khi vượt thoát khỏi ngọn núi đồ sộ Thượng Tích nằm phía sau lưng. Có nhiều tượng Phật được trang trí khắp các nguyện đường . Hằng năm vào tháng 6, trên một bức tường gạch hình chữ nhật 32 x 42 m, nằm về phía đông bắc tu viện, để đón chào khách hành hương từ muôn phương về, các vị Lạt Ma đã căng trên bức tường đó, mỗi ngày một bức tranh lụa khổng lồ, vẽ hình Ðức Phật qua ba trạng thái : quá khứ, hiện tại và vị lai. Căn phòng sơn màu đỏ thẳm ở phía tây bắc là nơi trưng bày Tượng Ðồng Ðức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát lớn nhất thế giới. Tượng được trang hoàng bằng vàng ngọc, mã não, san hô quý báu, do công sức của 110 người thợ làm việc suốt 4 năm liên tục mới hoàn thành. Khắp phòng còn treo la liệt những bức tranh vẽ hình Ðức Thế Tôn và Ðạt Lai Lạt Ma I là Zongkaba (1358-1419), người đã sáng lập ra Hoàng Phái Tây Tạng.

– Nữ Thiền Viện Phật Giáo Tây Tạng Trên Ðỉnh Hymalaya : Ðó là tu viện Chubchizhal nằm chót vót trên một đỉnh núi cao, hiện có hơn 500 nữ tu sống một cuộc đời kham khổ về vật chât nhưng tâm hồn thì vô ưu thanh thản. Có điều kỳ lạ là xưa nay chẳng ai nhắc tới họ, kể cả sách vở hướng dẫn du lịch, luôn cả khách vảng lai tới thăm viếng tu viện.

Có thể mọi người nhầm lẫn họ với các nam tu sĩ vì cả hai giới đều ăn mặc giống nhau với sắc phục áo cà sa màu đỏ tía, đầu cạo trọc đội mũ ni bằng len màu da cam, lưng đeo chiếc túi vải màu hoàng yến. Tu viện ở kế cận ngôi làng nhỏ tên Karaha, được xây dựng bằng đất khô trên núi Hy Mã, nằm trên cao độ 3.800m trong khu rừng về phía tây Ấn Ðộ, được mệnh danh là Tiểu Tây Tạng (Ladakhô Zanskar). Ðường từ Lhasa tới đây gian nan khốn khó, vì lên đèo xuống dốc và bị tắc nghẽn trong 8 tháng mùa đông và những khối băng tuyết ở đâu đó lăn ra giữa đường. Cuối cùng là chiếc cầu ván bắc ngang con sông Zankars đầy ghềnh thác và dòng nước xám xịt sâu thẳm rợn người. Phía bên kia là ngôi làng Karsha cách tu viện nửa giờ đi bộ.

Vào tu viện khách có cảm tưởng như đang lạc vào chốn mê cung được khoét sâu trong lòng núi với những cửa thấp và hẹp của hơn 20 lều bằng đất, mỗi cái có hai tầng : phía trên là phòng ngủ, còn tầng duới là nhà bếp, nhà vệ sinh tối om. Chính giữa tu viện là một cái sân lộ thiên dùng phơi củi, cỏ khô và các loại phân bò,dê… dùng làm chất đốt duy nhất trong mùa đông. Ðại Lạt Ma Lobzang Khedun, trụ trì tại một tu viện nổi tiếng của Tây Tạng ở phía tây Ấn Ðộ, tới đây thuyết giảng kinh kệ. Tu viện độc lập về tài chánh cũng như không trực thuộc một hệ thống nào của giáo hội. Nghèo khổ, thất học nhưng tâm hồn của các vị nữ tu Tây Tạng thì hĩ xả vô bờ bến. Chính họ đã đem lại sự sống còn cho rừng núi Hymalaya, ngày ngày tận tình giúp đỡ cho nhân thế… thực thi đúng lòng nhân ái vô bờ của Ðức Phật.

3 – TRUNG CỘNG DIỆT CHỦNG TÂY TẠNG :

Giống như tại Nội Mông và Tân Cương, ngay khi chiếm được lãnh thổ Tây Tạng vào năm 1950, Tàu đỏ lập tức cho thi hành chính sách thực dân, đem người Tàu từ bốn phương tới khai hoang lập nghiệp. Thái thú Giang Trạch Dân, sau trở thành Tổng Bí thư ĐCS Tàu, được đưa tới Lhasa chỉ huy chiến dịch “Diệt chủng Tây Tạng” vì đã thành công tại Nội Mông, qua nhiệm vụ hũy diệt gần hết thổ dân Mông Cổ tại vùng đất nhà, biến họ thành dân thiểu số (3 triệu) trước Hoa Kiều (20 triệu) tới lập nghiệp.

Trong kế hoạch diệt chủng người Tạng ngay trên quê hương họ, ngoài chính sách di dân ồ ạt, còn dùng vũ lực bắt buộc mọi người phải hạn chế sinh đẻ, trong khi chính vùng đất này có mật độ dân số thưa thớt nhất trên thế giới từ trước tới nay. Nhưng thâm độc hơn hết là chính sách của Tàu đỏ, biến người Tạng mất gốc để đồng hóa họ, sau màn “bắt phá thai” để càng ngày càng ít người Tạng. Ai cũng biết cả nước Tây Tạng sùng kính Phật giáo, nên Bắc Kinh đã tiến hành chủ trương hủy diệt nên văn hóa của họ, bằng cách đàn áp dã man Giáo Hội và Tăng Lữ Tây Tạng. Ðể có lý do biện minh với thế giới, Trung Cộng chụp mũ Phật Giáo và Văn Hóa người Tạng nhằm mục đích chia rẽ và tách rời Tây Tạng ra khỏi Trung Hoa, nên cần phải dẹp bỏ.

Qua cuộc đàn áp man rợ này, chỉ trong thập niên 60 của thế kỷ XX, Tàu đỏ đã hủy diệt hơn 60.000 ngôi chùa trên đất Tạng, có hơn 1 triệu người bị tàn hại với đủ mọi lý do (chiếm 1/6 dân số). Ðể dọn cỏ sạch gốc, Bắc Kinh tổ chức các toán công an tôn giáo gồm 5 người Tàu, tới tận các tu viện khắp Tây Tạng để dạy về ý thức hệ Mao-it (Chủ nghĩa Mao) và tinh thần ái quốc Hán tộc. Chúng bắt mọi người phải học tập mỗi ngày 4-5 giờ, để gột rữa hết giáo lý nhà Phật có từ trước, đồng thời nhét vào đó tư tưởng vô thần và chủ nghĩa xã hội. Khóa học kéo dài 2 tháng và chứng chỉ tốt nghiệp, chính là tờ tự xác nhận rằng “Tây Tạng trước sau bao giờ cũng thuộc lãnh thổ Trung Hoa”. Ngoài ra còn phải ký tên phủ nhận Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đang lưu vong, để thừa nhận Vị Bang Thiền Lạt Ma của Bắc Kinh mới là lãnh đạo tinh thần của họ. Ai không ký tên sẽ bị trục xuất ra khỏi tu viện và nhận chịu nhiều hình phạt thảm khốc sau đó.

Tóm lại tại Tây Tạng ngày nay, người nào nói “Tây Tạng không phải là đất của Tàu” (giống như tại VN, ai nói Hoàng Sa, Trường Sa là của VN), sẽ lãnh án khổ sai trên 10 năm. Với các tu sĩ còn tin Phật giáo sẽ bị đuổi khỏi tu viện, sẽ vĩnh viễn trở thành kẻ vô cư, không được du hành thuyết pháp và vãng lai tới chốn thị thành. Họ trở thành cô hồn phiêu bạt, sống một đời bất hạnh và thương đau mà không có bút mực nào ghi cho hết. Với những người không ký tên mà có vai vế thì bị bắt vào các nhà tù, các trại tập trung. Riêng số đồng ý ký nhận, cũng chẳng yên lành, ngoài việc lo sợ bị nằm vùng chỉ điểm, họ còn bị bắt buộc phải tập quân sự, bắn súng… nhằm mục đích làm cho người tu sĩ tự mình hủy diệt giới cấm nhà Phật “bất bạo động, không sát sinh, chẳng vọng ngữ…”

Với những vị đại sư tu trì khổ hạnh từ trước tới nay không màng dính líu tới sự đời, cũng không được để yên. Tàu đỏ bắt họ phải trả tiền thuê các hang động bằng không sẽ trục xuất, vì các hang động nơi thâm sơn cùng cốc vẫn được kê số nhà như ở thành thị. Ngoài ra những vị này bị coi như là ký sinh trùng, chỉ biết ăn bám xã hội… (nhất đĩ, nhì cha, thứ ba thầy chùa). Tiêu diệt người Tạng không những ở lãnh vực tôn giáo mà còn nhắm vào giáo dục học đường. Tiếng Tàu dần thay thế ngôn ngữ Tây Tạng trong việc giảng dạy các cấp kể cả Viện Đại học tại Lhasa. Áp bức, bốc lột, đầy đọa man rợ, đã khiến cho người Tạng mấy chục năm qua không ngớt nổi dậy chống lại giặc cướp Tàu đỏ, qua mọi hình thức kể cả đặt bom, ám sát, biểu tình và du kích chiến. Một số khác nhất là giới tăng lữ, không quản gì tới sự sống chết, bảo tuyết, đường xa thăm thẳm, rủ nhau bỏ nước tìm về Tiểu Tây Tạng tại biên giới Ấn Ðộ. Cuộc chiến dành độc lập của người Tạng không lúc nào ngớt và nay đã bộc phát dữ dội từ tháng 3-2008 như là một điểm nóng nhất trong tình hình sôi đọng của thế giới hiện nay.

4 – TỪ CUỘC NỔI DẬY CỦA NGƯỜI HỒI TÂN CƯƠNG

TỚI BIẾN CỐ 10-3-2008 TÂY TẠNG QUẬT KHỞI CHỐNG TÀU :

Tân Cương trước đây là đất của người Ðột Quyết (Uighur) thuộc chủng tộc Thổ Nhĩ Kỳ (Turks) theo Hồi giáo, có quá khứ rất hào hùng, đã nhiều lần chiếm cứ và làm cỏ Trung Hoa. Nhà Mãn Thanh sau khi chiếm được Trung Nguyên vào thời vua Khang Hy và Càn Long lần lượt thôn tính vùng này, nhập vào lãnh thổ của nước Tàu. Trên lý thuyết hiện nay Tân Cương là khu tự trị của Hồi tộc, là Cộng hòa Đông Thổ (East Turkestan) của người Duy Ngô Nhĩ, nằm về phía tây bắc Tàu đỏ, giáp với các nước Cộng hòa Hồi giáo cũ “tan” của Liên Xô như Kazakhstan, Kyrgystan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan. Vì bưng bít thông tin nên trước đây thế giới coi như mù tịt về tình hình chính trị của nước Tàu, tới năm 1996 bên ngoài mới nghe phong phanh về các vụ nổi loạn của người Hồi (Tân Cương) và Tây Tạng, chống lại Tàu Cộng, khiến Bắc Kinh phải gửi quân đội đông đảo tới 2 vùng này để đàn áp các cuộc quật khởi thường trực của 2 Dân tộc trên.

Tại Tây Tạng từ khi cuộc khởi nghĩa dành độc lập bị thất bại vào năm 1959, đã có hàng triệu người Tạng bị chết thảm bởi sự khủng bố của Tàu đỏ. Còn Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 may mắn thoát khỏi Tây Tạng và tới được Ấn Ðộ lập Chính phủ lưu vong tiếp tục đấu tranh đòi độc lập cho xứ sở.

Trung Cộng tới giờ tuy bị mang đầy tai tiếng về các loại hàng xuất khẩu chứa hóa chất giết người nhưng đối với bọn tài phiệt tư bản da trắng lẫn da màu, trong đó bỉ ổi nhất vẫn là Ấn Ðộ, Nepal… vẫn còn ham muốn thị trường khổng lồ của Tàu, nên chỉ phản ứng có lệ, rồi thì nhắm mắt phủi tay, đem lương tâm con người đổi lấy lợi nhuận, nhất là Hoa Kỳ lúc nào cũng to tiếng về nhân quyền nhưng thực tế luôn bợ lưng cho kẻ ác để hưởng lợi.

Dù cô thế, người Tây Tạng trong và ngoài nước vẫn son sắt một lòng, quyết tâm chống lại Tàu đỏ để giành độc lập lại cho Đất nước mình. Và giờ phút lịch sử đã tới vào sáng ngày 10-3-2008 : Toàn dân Tây Tạng đứng dậy chống giặc Tàu xâm lăng. Tại thủ đô Lhasa, hàng ngàn nhà sư và dân chúng ào ra các đường phố biểu tình ôn hòa, đòi độc lập và quyền sống. Cơ quan tình báo của Anh Quốc đã xác nhận lời tố cáo của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma rằng việc Tàu đỏ cho công an và bộ đội giả dạng các sư sãi biểu tình đập phá các cửa hiệu của Hoa kiều tại Lhasa, để có cớ đem quân đội ào ạt vào Tây Tạng đàn áp dân chúng vô tội là đúng sự thật. Khắp các tỉnh Cam Túc, Tứ Xuyên nơi có đông người Tạng trú ngụ, cũng xảy ra nhiều cuộc biểu tình chống Tàu. Trung Cộng ào ạt đổ quân tiếp viện, bắn chết nhiều người, biến thủ đô Lhasa thành cảnh hoang tàn đổ nát.

Trong khi đó người Tạng lưu vong khắp nơi trên thế giới cũng đồng loạt đứng dậy biểu tình đòi Tàu đỏ phải trả lại độc lập cho Đất nước mình. Tại Ấn Ðộ nơi có hơn 100.000 người Tạng lưu vong dự định đi bộ về lại cố hương để cùng đồng bào sát cánh chống kẻ thù, nhưng họ đã bị lưc lượng an ninh Ấn chận lại tại biên giới. Ở Hoa Kỳ, nhiều nhà sư Tạng biểu tình trước trụ sở của LHQ tại New York, tố cáo Tàu đỏ cướp nước diệt chủng. Ngày 24-3-2008 tại vận động trường Olympic (Hy Lạp), Tàu Cộng và Ủy Ban Thế Vận Hội chính thức khai mạc buổi lễ rước đuốc thế vận mùa hè 2008 tại Bắc Kinh. Trong lúc Liu Qi, chủ tịch tổ chức thế vận hội Tàu, đang thao thao đọc diễn văn thì bị một người đứng sau đưa tấm vải đen vẽ hình năm chiếc còng số 8, kết thành 5 vòng tròn biểu tượng của Olympic. Cùng lúc một phụ nữ Tây Tạng khắp mình dính đầy máu đỏ (giả), chận đường người cầm đuốc. Nhiều người khác chạy vào vận động trường hô to khẩu hiệu tẩy chay thế vận hội và chống Tàu Cộng.

Tất cả những diễn biến trên cộng với lòng căm hận của giới tăng lữ Tây Tạng, đã làm cho Tàu Cộng vừa mất mặt, lẫn lo sợ vì ngày khai mạc thế vận hội đã tới gần. Trong lúc đó nhiều vị nguyên thủ thế giới đã công khai khước từ tham dự Thế Vận Hội như Thủ tướng Ðức (Bà Angela Merkel), Tổng thống Ðức (Horst Kohler), Thủ tướng Ba Lan (Donald Tusk), Thủ tướng Slovakia (Robert Fico), Tổng thống Cộng Hòa Czech (Vaclay Klaus)… nhưng TT G. Bush và thủ tướng Anh Gordon Brown thì hớn hở có mặt để chúc mừng !

Và Bắc Kinh đã không ngờ là các cuộc bạo động lại nhanh chóng lan rộng khắp thế giới cũng như tại Tây Tạng và các tỉnh lân cận kể cả Tân Cương, biến cả phần đất phía tây nước Tàu thành trận địa không cách gì dập tắt nổi, khi hận thù dân tộc đã bay vút lện tận trời cao và thấm sâu trong máu thịt của con người.

Ðế quốc Tàu đỏ ngày nay có diện tích chỉ thua Liên Bang Nga và Canada, lớn hơn Hoa Kỳ nhưng dân số lại đông nhất thế giới (9.559.690 km2, hơn 1,4 người). Gọi Trung Cộng là đế quốc vì các phần đất Mãn Châu (Ðông Tam Tỉnh), Nội Mông, Tân Cương, Thanh Hải và Tây Tạng, chiếm hơn 60 phần trăm diện tích nước Tàu, đều là lãnh thổ của các quốc gia độc lập có chủ quyền, nhưng đã bị người Mãn và Hán dùng vũ lực cưỡng đoạt trước năm 1950, một cách thô bạo.

Như Liên Bang Sô Viết trước đây, đế quốc Tàu đỏ từ ngoài nhìn vào thì thật là đồ sộ, phồn vinh và hùng mạnh, thực tế rất mong manh, có thể tan vỡ lúc nào đâu ai biết chắc. Kinh tế phát triển nhưng sau những dãy nhà chọc trời là hình ảnh của triệu triệu hồn ma bóng quỹ nghèo đói khắp nông thôn lẫn thị thành. Ðó là hậu quả của một nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội, chỉ tạo nên cảnh giàu nghèo chênh lệch, tham nhũng không còn thuốc chữa và tạo cơ hội cho bọn tư bản Âu-Mỹ, Nhật, Nam Hàn, bọn Hoa kiều tứ xứ trong đó có Ðài Loan… đầu tư vốn làm giàu trên máu xương của tầng lớp lao động nghèo bán máu thịt đổi manh áo và chén cơm.

Sự bần cùng hóa nông thôn, nạn quan liêu cửa quyền hống hách, coi mạng người như cỏ rác và chính sách khủng bố diệt chủng các dân tộc bị trị, ý đồ xâm lăng các nước láng giềng để đồng hoá, cướp đất và ảo vọng làm bá chủ thế giới, đã công khai thách thức Hoa Kỳ lẫn thế giới một cuộc đại chiến tại Ðông Á-Thái Bình Dương, hầu như rất khó tránh khỏi, nhất là khi Tàu đỏ bị dồn vào chân tường vì sự tẩy chay của nhân loại.

Tháng 3-2005, Tàu Cộng đã thông qua đạo luật sử dụng quân sự để tấn công Ðài Loan, nếu nước này dám tuyên bố độc lập. Ðây là một đòn phủ đầu răn đe các dân tộc Mản, Mông, Hồi, nhất là Tây Tạng luôn tìm đủ mọi cách quật khởi dành lại Đất nước mình đang bị người Tàu cưỡng chiếm đô hộ.

Ngày 15-9-2005 tại trụ sở LHQ nhân kỷ niệm 60 năm thành lập, chủ tịch Trung Cộng là Hồ Cẩm Ðào, đã đưa ra chính sách sống chung hòa bình với thế giới qua ba chủ trương bao dung, hòa hợp và liên kết để xoa dịu sự căng thẳng và hồ nghi của các nước đang nhắm vào người Tàu. Nhưng đó chỉ là lý thuyết, thực tế Trung Cộng càng ngày càng bành trướng thế lực, gia tăng bộ máy chiến tranh nhất là lực lượng hải quân, công khai xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa cưỡng đoạt của VN. Tất cả hành động ngông cuồng trên đã làm cho tình hình an ninh của thế giới thêm căng thẳng, tạo cơ hội cho Hàn Quốc, Ấn Ðộ, Nhật Bản, khối Asean.. bắt buộc phải liên minh với Mỹ để tự vệ. Ngay cả Nga là quốc gia duy nhất có chung biên giới và ý thức hệ một thời với Trung Cộng, cũng luôn tỏ thái độ hồ nghi và phải tiến hành một số biện pháp phòng ngự, dù ngoài mặt như đang cùng phe với Tàu đỏ chống Mỹ.

Biến cố mới nhất tại bán đảo Triều Tiên, qua hành động lố lăng của Tàu đỏ, xúi Bắc Hàn, cùng Iran, dùng bom Nguyên Tử hù dọa thiên hạ, đã bị dội ngược vì sự phản đối mạnh mẽ hơn bao giờ hết trước Hoa Kỳ, Nhật và Nam Hàn. Thêm vào đó là sự hỗn loạn tại lục địa vì nạn lạm phát, thất nghiệp và viễn ảnh của sự sụp đổ kinh tế không xa, vì rào cản “ bảo hộ “ của Mỹ, Liên Âu… sẽ làm cho Tàu đỏ không còn con đường nào khác là “gây chiến tranh” như Ðức, Ý, Nhật đã làm trước đây. Ðó cũng là ngày tàn của đế quốc Tàu đỏ, tham tàn, hung ác và xảo quyệt, không một ai không nguyền rũa, không một ai không mong được thấy ngày tàn của chúng. @@@

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di, tháng 12-2010 – 
MƯỜNG GIANG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét