Sau 1975, miền Nam Việt Nam bị thua trận. Thế hệ trẻ chúng tôi là con cháu của những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đều như đàn ong bị vỡ tổ, bay tứ tán. Lớp nào theo gia đình chạy được ra nước ngoài thì còn có tương lai. Số còn lại trong nước đều hoang mang, sợ hãi. Trước mắt chúng tôi, tất cả mọi con đường đều mịt mờ vô định. Học hành lên cao thì không được vì lý lịch, kiếm việc làm thì chỉ có cầu đường, thủy lợi, đạp xích lô, bán chợ trời…hoặc là đi kinh tế mới, đi thanh niên xung phong.
Khắp nơi trong nước, các phong trào tổ chức vượt biên, vượt biển dần dần lên cao. Đâu đâu thiên hạ cũng lén lút bàn chuyện trốn đi. Bên cạnh đó biết bao câu chuyện đắm tàu con người phải bỏ thân trong bụng cá; biết bao câu chuyện về hải tặc Thái bắt giết, cướp bóc và hãm hiếp phụ nữ; nhiều, nhiều lắm nhưng cũng không làm chùn lòng những người có ước vọng ra đi tìm tự do, và tìm một tương lai tươi sáng. Người ta nói lúc đó cột đèn biết đi nó cũng bỏ đi mà.
Dì tôi ở Sài Gòn móc nối được với người tổ chức vượt biên. Họ bắt mối với người chủ ghe ở Lương Sơn nên dự định sẽ cho người ra đi từ bãi biển này. Đa số khách đi chuyến này là dân Sài Gòn, cần có một số nơi chuyển tiếp nên nhà tôi được dì giới thiệu với người tổ chức cho trú tạm vài người. Bù lại hai chị em tôi sẽ được cho đi miễn phí. Chuyến vượt biển này dì tôi cho cả năm đứa con ra đi. Chồng dì cũng như ba tôi trong thời gian đó đều đang ở trong trại học tập cải tạo nên không tham gia.
Chúng tôi bảy chị em ăn mặc như những người dân quê, đứa đội nón lá đứa đội mũ rơm lụp xụp, tay xách giỏ lát đựng ít quần áo và vài món ăn khô theo người dẫn đường đi xe lửa ra Lương Sơn. Đây là chuyến tàu chợ nên tới Lương Sơn nó dừng lại một lúc rồi mới chạy tiếp. Cả nhóm chúng tôi leo xuống, lếch tha lếch thếch theo người dẫn đường đi qua một cái chợ nhỏ. Lúc đó khoảng tám giờ sáng nên chợ cũng đông người lắm, kẻ mua người bán nhộn nhịp ngược xui. Đang đi bỗng dưng có một cô gánh rau đi theo và xáp gần tôi nói nhỏ:
- Đi vượt biên phải không? Lộ rồi! Về đi.
Sao cô ta biết? Có phải cô ta là công an giả dạng hù chúng tôi? Chờ nếu chúng tôi quay lại tức là tự khui tẩy họ sẽ bắt ngay. Mà cũng có thể họ là dân địa phương biết được tin gì nên thương tình báo cho chúng tôi biết mà quay về? Tôi nói nhỏ cho con em họ biết nhưng đầu óc cả bọn như mụ đi, chân cứ bước theo người dẫn đường đi tiếp. Sau này nghĩ lại thấy mình thật dại. Đã được người dân ở đó thương báo động mà không biết quyết định dứt khoát quay về để cứ đút đầu vô thòng lọng. Rút kinh nghiệm, hễ đánh hơi thấy nguy hiểm thì không nên nhắm mắt làm liều lao tới.
Đi được một lúc, quanh qua quẹo lại không nhớ nổi là đi hướng nào nữa, cuối cùng chúng tôi tới một ngôi nhà nhỏ lợp tranh nằm trong một khu vườn vắng vẻ. Họ dẫn chúng tôi vào căn nhà nhỏ đó. Từ ngoài sáng vào, đứa nào đứa nấy như mù không thấy gì cả. Họ bảo chúng tôi ngồi đây ráng giữ im lặng chờ đến tối sẽ dẫn ra biển để lên ghe.
Ngồi được ít lâu, chúng tôi mới biết là trong nhà đã chứa sẵn rất nhiều người. Thầm thì hỏi chuyện mới biết nhiều người tới đây chờ từ hai ngày trước. Trời ơi! Ngồi im lặng mới chút xíu đã thấy căng thẳng hồi hộp hết sức mà họ lại ở đây từ lâu! Tôi còn nhớ cảm giác lúc đó, cứ như cá đang nằm trên thớt chờ chết. Không gian như lắng đọng lại. Mọi tiếng động dù nhỏ cách mấy cũng được phóng to lên, vang dội. Tiếng duỗi chân thì nghe như tiếng gõ mõ, tiếng nuốt nước miếng nghe như tiếng thạch sùng kêu. Thời gian như kéo dài ra vô tận, cho đến một lúc chúng tôi nghe tiếng đập rầm rầm ngoài cửa và tiếng la to:
- Tất cả người trong nhà ngồi im. Bỏ vũ khí xuống.
Thôi rồi! Dao đã chặt xuống thớt. Cả bọn chúng tôi gần ba chục người già có trẻ có đều bị tó hết và bị áp tải về đồn công an của xã. Lúc này hết bị hồi hộp căng thẳng mà thay vào đó là bị khủng bố, đánh đập, hành hạ, tra hỏi. Cũng may mấy chị em chúng tôi là con gái và con nít nên không đứa nào bị đánh mà chỉ bị nạt nộ quát tháo thôi. Họ cứ tra đi tra lại coi ai có mang theo vòng vàng nữ trang để tịch thu. Tôi biết được là có nhiều người bị mất của ở cái ải đầu tiên này lắm. Tối đó, xe bít bùng chở hết chúng tôi từ trạm Lương Sơn vào trại giam Trần Phú ở Nha Trang.
Về tới đây, sau khi hỏi cung chớp nhoáng, nam nữ được phân ra. Tôi cùng hai con em họ và một số đàn bà con gái cùng nhóm được dẫn vào phòng giam nữ. Căn phòng nhỏ và chật kín người. Không khí đầy ngập mùi mồ hôi và mùi khai ngây ngấy rất khó chịu. Chúng tôi là lính mới nên bị xếp nằm gần phòng vệ sinh, mùi khai càng nồng nặc hơn.
Tôi rất mệt, nhưng buồn và lo nên cả đêm thao thức không làm sao ngủ được. Chỉ cách nhau một bức tường và một hàng rào kẽm gai, mà ngoài kia là một không gian khoáng đãng với biển, với không khí thơm lành, với những người thức khuya đang dạo biển cười nói nhởn nhơ. Họ có bao giờ biết đến rất gần với họ, cùng một thời gian nhưng không gian hoàn toàn khác hẳn - một đám người bất hạnh đang nằm xếp lớp như cá mòi hít thở cái mùi ngột ngạt khai ngấy này chăng? Đúng là sai một ly đi một dặm. Tôi đã vì không tính toán quay lại đúng lúc nên đã từ tầng đầu địa ngục rơi xuống một tầng nữa, sâu hơn. Thật là ngu!
Sáng ngày, lại hỏi cung. Khai tới khai lui cũng mấy chuyện biết ai là người tổ chức, ai chứa chấp, ai còn giấu của phải giao nộp. Tụi tôi đâu biết gì mà khai.
Cả ngày trừ lúc hỏi cung và ra ngoài tắm giặt mười lăm phút, còn thì cả đám tù nữ chúng tôi khoảng năm chục người bị nhốt hết trong căn phòng nhỏ chật chội đó. Tất cả cửa sổ bị cài chặt, không được nhìn ra ngoài. Đa số bị bắt vì tội vượt biên, chỉ có một số ít là tội hình sự, chính trị. Có nhiều cô ở đây hơn hai ba tháng rồi mà vẫn chưa biết được số phận sẽ ra sao.
Hai bữa cơm trưa, cơm chiều được cung cấp vào tận phòng và dĩ nhiên là đồ ăn tù thì làm sao nuốt trôi. Mấy ngày đầu, chị em tôi ăn không vô. Ráng ăn giữ sức nhưng chỉ ăn được một nửa, phần còn dư có A Giang, một cô nàng bự con người Tàu Chợ Lớn thầu hết. A Giang ăn khỏe lắm. Cô nàng bị bắt vì tội vượt biển và vào đây trước chúng tôi một tháng. A Giang nói tiếng Việt lơ lớ, thân thiện và tự nhiên với tất cả mọi người nên ai cũng mến nàng ta.
Mỗi chiều đều có họp phòng. Trưởng phòng tóm tắt sinh hoạt, nội qui rồi nói sơ qua về sự việc xảy ra trong phòng ngày hôm đó như có ai mới gia nhập, ai mới được tha. Rồi thì nửa tiếng đọc báo cho bà con biết tin tức. Tôi nhìn cô nàng trưởng phòng mà liên tưởng đến Trưng Trắc hoặc Trưng Nhị vì có một cái gì đó rất uy nghi và oai hùng trong dáng vẻ của cô ta. Mặt cô nàng rất đẹp - mũi cao, cằm chẻ, miệng trái tim, và đôi mắt to với một tia nhìn mạnh mẽ, cứng rắn; dáng người cũng hết ý - một vẻ đẹp khỏe mạnh, thể thao chứ không ẻo lả thướt tha. Cô nàng ăn nói gãy gọn, đanh thép. Tôi nghĩ con nhỏ này ngoài đời chắc là nữ chúa một đảng cướp nào đó nên mới làm trưởng phòng có uy điều khiển đủ mọi loại tội phạm như thế này. Người đẹp như vậy mà làm nữ tướng cướp thì uổng quá. Nếu sinh nhằm thời xưa thì chắc phải là nữ tướng chứ chẳng chơi. Cô nhỏ trưởng phòng này tên Thu Thủy, sau này là bạn thân của tôi. Hóa ra nó cũng là dân Nha Trang, nhỏ hơn tôi hai tuổi, và bị bắt tội vượt biên.
Ở trại giam Trần Phú được vài ngày thì ba đứa em họ nhỏ của tôi được thả vì còn nhỏ. Còn tôi và thằng Bảo em ruột, cùng hai chị em bạn dì Bội Trà và Dũng thì bị chuyển đi trại giam A30 Tuy Hòa gần một tháng sau. Cùng bị chuyển đi có khoảng ba chục tù cả nam lẫn nữ, trong đó có Thu Thủy nhỏ trưởng phòng và A Giang.
Ba tôi bị đi "học tập cải tạo" ở trại A30 từ năm 75 nên chúng tôi vừa xuống xe là có ông đứng chen lẫn trong đám tù đứng nhìn bên vệ đường. Lợi dụng lúc mấy người công an không để ý, ba tôi nhờ mấy chú lén lút chuyển cho chị em chúng tôi một lon guigoz đựng thức ăn nấu sẵn. Ba tôi làm trong đội mộc nên đi lại có hơi tự do. Sau này ông thường xuyên tiếp tế củi cũng như thức ăn để chúng tôi ăn thêm đỡ đói.
Bọn con gái chúng tôi khoảng hơn chục người được chuyển về phòng giam nữ. Phòng này dài và thoáng hơn phòng giam nữ ở Trần Phú nhiều. Vách phòng đan bằng lá, dọc hai bên vách là những cái phản bằng tre nứa, bên trên là kệ để đựng giỏ đồ. Mỗi người được phát một cái chiếu đơn, trải sát nhau để ngủ. Mùng mền tự túc, ai không có mùng thì muỗi cắn ráng chịu. Chúng tôi được dì thăm nuôi hồi ở trại giam Trần Phú nên có sẵn mùng mền. Tôi và con em họ Bội Trà dùng chung.
Phòng giam nữ này tính luôn đám mới chúng tôi tổng số hơn bảy chục người, cũng đủ loại tội vượt biên, hình sự, nữ quân nhân, và chính trị. À, có thêm mấy người nữ tu nữa chứ.
Ngay hôm đầu tiên, chúng tôi đã bị “đại bàng” của phòng là con Lý hăm dọa:
- Tụi mày mà không nghe lời tao là tối ngủ tao đổ nước sôi vô tai!
Mấy người tù trước thì thầm cho chúng tôi biết:
- Có đồ ăn mà không chia cho nó là nó đổ chì nóng vô tai luôn chứ không phải đổ nước sôi đâu.
Trời ơi, nghe mà hết hồn. Nhìn mặt con Lý đã thấy ớn rồi, tóc tai thì xù ra như cái tổ quạ, mắt to đen hoang dã, môi thâm xì, tướng tá thì như con beo cái. Con Lý nguyên là trẻ mồ côi, lớn lên đi ở đợ giữ em cho người ta. Nghe nói vì muốn cướp sợi dây chuyền của đứa nhỏ nên nó quăng em bé xuống giếng chết và bị xử án tù chung thân. Có lần sau này tôi chính mắt thấy nó bực mình con chó hoang tới ăn vụng đã cầm con dao nhọn phóng con chó. May sao con dao chỉ sợt sát cạnh chó nên cắm cái phụp xuống đất thấy mà rợn da gà. Thế mới thấy tánh man dã hung dữ của nó. Hồi xưa con Lý còn man di mọi rợ nhiều hơn nữa kìa, nhờ đám tù vượt biên vào bày cho nó chải đầu, cột tóc và cho quần cho áo nên lúc tụi tôi mới vào trại tướng tá hung dữ của nó mười phần chỉ còn có tám thôi đó.
Vậy mà con Lý lại làm tổ phó trật tự của đội nữ. Nó chơi ác phân chỗ ngủ chị em tôi nằm sát với nó nữa chứ. Tối đó ngủ mà cứ chập chờn thức đề phòng lỡ nó khùng lên lấy nước sôi đổ vào lỗ tai thì tiêu tán đường.
Sáng sớm mới năm giờ đã có kẻng báo thức. Cửa phòng được mở ra để tù ra sân làm vệ sinh rửa mặt đánh răng. Được ra khỏi phòng hít thở không khí trong lành đỡ hơn bị giam trong phòng kín như hồi ở trại giam Trần Phú nhiều. Đám tù nữ đã được phân công sẵn, hai người trực phòng phải đi gánh nước, hai người khác đi gánh đồ ăn trưa về phân ra cho mỗi người để ăn lúc đi lao động, và hai người khác phải gánh hai thùng phân đi đổ. Bọn chúng tôi trước giờ đâu bao giờ đụng đến quang gánh, cả tuần đầu tiên phải lót khăn trên vai, gánh nặng không nổi đi xiểng liểng thảm lắm.
Mỗi ngày từ sáng sớm đến chạng vạng tối, đội nữ phải ra đồng làm việc. Cấy lúa, nhổ cỏ lúa, cuốc đất, trồng rau đủ cả. Vì đội đông người nên chia làm mấy tổ nhỏ mỗi tổ cỡ chục người để dễ canh chừng. Thu Thủy trưởng phòng ở trại giam Trần Phú, Bội Trà em họ của tôi, và tôi được phân chung một tổ, chị Mai ngoài đời nguyên là ma-sơ làm tổ trưởng.
Đội nữ có hai nữ công an canh giữ mỗi khi đi lao động. Một người tên Cơ và người kia tên Phẳng. Bà Cơ không đến nỗi hung dữ lắm, ngược lại bà Phẳng chỉ nhìn sơ mặt đã thấy gian ác rồi. Mắt bà ta trắng dã, môi mỏng và giọng nói the thé nghe chua như giấm. Bà này không biết tại sao rất ghét bọn tiểu thơ chúng tôi, cứ bắt tổ chúng tôi cấy lúa ở những chỗ ruộng sâu nhất, có nhiều chỗ bùn sình cao lên tận thắt lưng. Đến lúc giải lao mười phút nhiều khi không cho chúng tôi nghỉ nữa.
Đi cấy lúa thì phải bị đỉa hút máu rồi. Đang lom khom cấy lúa thấy chân ngưa ngứa, giơ cẳng lên coi thì thấy có mấy con đỉa đen thui bám vào, cô nào cũng hết hồn la chói lói. Không ai dám thò tay bắt ra cả, phải chờ một hai chị ở lâu và dạn dĩ tới bắt giùm. Chẳng lẽ cứ phải nhờ vả người ta hoài, nên mấy ngày sau tôi học được cách bắt đỉa và từ đó không những tự bắt cho mình mà còn bắt cho mấy người bạn trong tổ nữa. Khi bị đỉa cắn, nhổ nước miếng và bôi vào hai đầu chỗ con đỉa hút máu, nắm cái mình của nó giật mạnh là nó sút ra liền.
Con gái sợ đỉa là chuyện thường, đàn ông con trai cũng sợ đỉa nữa kìa. Đang làm, nghe tiếng mấy ông con trai bất thần rú lên và cong cẳng nhảy tưng tưng ở ruộng bên cạnh ai cũng mắc cười. Có người sợ quá té bệch ngồi xuống sình, giơ hai cẳng lên trời, tếu không chịu được.
Nhiều hôm, chúng tôi thấy hai thằng em ở ruộng bên cạnh đang còng lưng è cổ kéo cày thế trâu trông thật thảm và tội nghiệp. Chắc tụi nó thấy hai bà chị đang lội lõm bõm trong bùn mà cũng xót thương cho chúng tôi.
Hai đứa em trai sau này được ba tôi xin vào làm chung đội mộc. Hai đứa ở tù tám tháng thì được tha về.
Làm lao động được cỡ hai tuần thì ông bang trưởng của trại (danh xưng của tù nhân gọi trại trưởng, sếp của các giám thị trại) kêu vài người trong nhóm nữ mới tới vào đội văn nghệ trại, trong đó có Thu Thủy và tôi. Thu Thủy xinh đẹp được tuyển thì có lý, còn tôi lúc đó ốm nhom ốm nhách như con cò ma, kêu làm chi cho tôi bị rắc rối, vì ba tôi khi nghe tin ấy đã nhờ người truyền lịnh xuống con gái:
- Con của sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa không được lên sân khấu múa may cho Việt cộng coi.
Tôi nghĩ ba tôi lấy cớ về chính trị chỉ là một phần thôi, vấn đề chính là ông rất khó tính đối với con cháu trong nhà, không muốn con gái ra sân khấu ca hát cho đàn ông con trai xem. Hồi còn đi học, mấy con bạn của tôi tới chơi nghịch mấy, ông cũng cười tươi đón tiếp tụi nó. Còn tên bạn trai nào tới nhà chơi là ông đổi thái độ ngay, mặt lạnh như băng giá làm anh nào cũng khiếp. Nghĩ thì thế nhưng ba nói phải nghe lời. Tôi “tuân lịnh” ba từ chối không vào đội văn nghệ.
Không ngờ nhỏ Thu Thủy bỗng đứng về phía tôi, cũng từ chối theo. Thế là hai đứa bị kêu lên viết bảng kiểm điểm, bị cùm cẳng một ngày rồi bắt đi xay lúa. Từ lúc đó, Thu Thủy và tôi thân nhau. Cô nàng khỏe hơn tôi nên thường hay làm đỡ những việc nặng giùm tôi lắm. Càng quen với Thủy tôi càng thương và thích vì tính tình cô nàng rất dễ thương, và rất thẳng thắn. Tôi kêu Thủy là Rô bô, còn Thủy kêu tôi là Xì Ke hoặc Xi Cà Que.
Khi cây lúa lên hơi cao chúng tôi phải đi nhổ cỏ lúa. Cả tuần mà chúng tôi vẫn không phân biệt được lúa và cỏ lúa, nhổ lung tung. Hai bà công an ngồi trên bờ quát tháo om sòm. Sau này thì khỏi nói rồi, nhìn xa xa là biết, nhổ trúng phóc.
Lao động suốt ngày dưới ruộng, mấy tiểu thơ cô nào cũng bùn sình lem luốc từ đầu xuống chân. Hết giờ lao động, mỗi người đem theo một bộ đồ sạch để thay rồi cả đội nữ kéo nhau xuống suối tắm. Con suối này chạy dọc theo trại, bờ bên trại thoai thoải nhưng bờ bên kia thì cao. Mùa hè nước suối rất trong và mát. Hai bên bờ cây cối xanh tươi. Cảnh vật nhìn đẹp như tranh, có điều đằng sau bức tranh này là những cơ cực, những đày ải mà người tù phải chịu đựng qua nhiều năm tháng dài lê thê.
Một hôm sau khi tắm suối về, đến giờ điểm danh để khóa phòng giam, đội nữ bị thiếu một người, đó là Hàn Vân. Vân là người gốc Hoa ở Chợ lớn, bị bắt tội vượt biên và bị chuyển đến trại A30 cùng một lúc với tôi. Nhiều người nhớ ra là hồi nãy ngoài suối có thấy Vân tắm chung, có khi nào Vân quên còn tắm dưới suối chăng? Công an và vài người tổ trưởng chạy xuống suối tìm. Bên bờ suối vắng tanh chỉ còn sót lại bộ đồ và đôi dép của Vân. Chắc là Vân bị chết đuối dưới suối mà không ai biết. Trại cho một số người đi dọc theo suối tìm nhưng vẫn không kiếm ra xác. Chúng tôi ai cũng buồn khi nghĩ đến bạn mình còn trẻ thế mà đã sớm ra đi, lại chết trôi như vậy thì quá thương tâm.
Đến sáng hôm sau, cả đội vẫn dậy sớm và ra ruộng làm như thường lệ. Chiều về phòng lấy đồ đi tắm thì ô hay! Vân của chúng tôi đang ngồi lù lù ra đó, hai chân đang ở trong cùm. Mừng cho bạn còn sống, mà buồn vì bạn bị đày đọa, thấy thương Vân quá. Thì ra tối qua Vân bày kế giả bộ chết đuối rồi lẻn ra khu thăm nuôi núp. Chờ đến sáng, Vân che nón, lẫn theo những người đi thăm nuôi đi ra khỏi trại. Có điều xui là anh chàng công an gác cổng nhận ra Vân vì Vân xinh lắm, chận cô nàng lại hỏi:
- Có phải chị Vân đó không?
Vân rất nhanh trí, hình như đã chuẩn bị sẵn nên trả lời:
- Thưa anh! Anh hỏi ai?
Thường thì tù nhân phải gọi công an trại là “cán bộ”. Gọi hoài nên quen miệng. Vậy mà Vân đâu có mắc bẫy, đủ thấy là cô nàng thông minh đã chuẩn bị sẵn các tình huống. Nhưng tên công an này chắc là để ý đến Vân lâu rồi nên hắn tóm ngay cô nàng:
- Chắc chắn chị là Vân rồi!
Vân vừa bị bắt, móc túi lấy ngay một vốc thuốc ngủ bỏ vào miệng nuốt ực tính tự tử. Cô nàng thật là gan! Họ đưa ngay Vân vào trạm xá trại, và chiều đến cũng trong ngày, khi Vân vừa hơi khỏe lại là cô nhỏ bị đưa về phòng giam nữ và bị cùm hai chân ngay. Vân bị cùm cả tháng mới được tha cùm và ở trại A30 gần năm rưỡi mới được tha. Quả đất thật tròn, mười lăm năm sau tôi gặp lại Vân ở Minnesota. Nói sao cho xuể nỗi vui mừng khi gặp lại nhau trên đất khách quê người.
Tắm xong, chúng tôi mới về nhận lãnh phần cơm chiều. Phần cơm này đã được người trực phòng xuống nhà bếp gánh về và chia sẵn. Đa số tù vượt biên nữ có người nhà thăm nuôi nên không đến nỗi thiếu ăn lắm, thêm nữa con gái cũng không ăn uống nhiều. Còn bên nam cũng lãnh khẩu phần ăn ngang với nữ tức là chỉ được một chén cơm thì làm sao đủ no nên nhiều người phải kiếm gì phụ thêm cho bữa ăn. Khi đi làm nếu gặp con gì bắt con nấy bỏ bịch ny lông đem về làm thịt. Mấy loại dù nhỏ nhưng còn nhúc nhích như nhái, cóc, dế, thằn lằn..v.v đều là hàng quí, không bỏ con nào.
Buổi tối tất cả đều bị nhốt hết trong phòng giam. Cửa buồng bị khóa chặt từ bên ngoài. Tôi nằm mà nhớ nhà, nhớ má và các em, nhớ biển, nhớ bạn bè, nhớ đủ thứ. Tôi ước gì được nằm ôm má và hít hà hơi ấm của người; rồi thèm được nằm dài soãi hai tay hai chân trên cát biển, nghe tiếng sóng vỗ bờ, nhìn những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời; thèm được thở và hát vang trong bầu không khí tự do tươi mát. Những điều thật đơn giản nhưng sao xa vời quá!
Bên cạnh tôi, các cô tiểu thư khác người thì hí hoáy viết thư cho người nhà, người thì cặm cụi đọc sách, nhưng đa số thì nói về chuyện… ăn! Nói tới nói lui cũng lại xoay về những món ăn ngon mà giờ đây quả thật quá xa vời. Nói cho đã thèm mà! Bởi vì “có thực mới vực được đạo”.
Trong đám tù nữ chúng tôi người luôn luôn thấy đói là A Giang. Sức ăn của A Giang có lẽ còn hơn đàn ông nữa, đi lao động cần nhiều dinh dưỡng nên ăn thiếu chất như thế bao nhiêu cũng không đủ cho nó. Trại có cho phép tù viết thư về gia đình để “báo cáo tình hình học tập lao động tốt”, dĩ nhiên là phải bị kiểm duyệt rồi. Một hôm họp cả trại, bang trưởng của trại đọc lớn lá thư của A Giang gởi về gia đình:
- “Má ơi! Tao lao động tốt, mạnh phẻ lắm. Mày mau đi thăm tao và mua cho tao những thứ sau đây: Lạp xưởng mười kí; thịt bò khô mười kí; nấm đông cô mười kí..”..Tiếp theo là nhiều thứ khác, thứ nào cũng chục kí, một cái danh sách dài đến hai trang giấy A Giang dặn má nó mua, nhiều đến nổi có thể mở một gian hàng tạp hóa. Cả trại nghe mà cười ồ.
Tôi còn nhớ hoài lúc A Giang bị đau răng, nó nằm trên phản gỗ vật mình vật mẩy rên xiết, cứ y như là con voi đang giận dữ phá rừng vậy. A Giang ở tù hơn một năm mới được tha. Nghe nói sau này cô nàng đi vượt biên bằng đường bộ. Không biết số phận nó thế nào rồi?
Đội nữ nói riêng cũng như trại tù nói chung giống như một xã hội thu nhỏ, đủ mọi thành phần, đủ mọi tính khí và đủ thứ xung đột. Sống chung đụng với nhau vào những lúc đói khổ, bần cùng, cơ cực mới biết được tính khí từng người. Những mặt trái của con người lúc này là lúc được phô bày một cách trần trụi, và tàn nhẫn. Bên trong những hình hài hoàn chỉnh là những ích kỷ, nhỏ nhen, ganh tị, quỵ lụy, hèn nhát, tham lam, bần tiện, đủ cả.
Tù vượt biên bị bắt ngày càng nhiều, người thả ra thì ít nên đội nữ càng lúc càng đông. Con Lý dạo này thay đổi tính tình thuần đi nhiều, và xinh đẹp hẳn ra. Nó được gần gũi với mấy cô nàng tù vượt biên nên được chỉ bảo cách ăn nói và ăn mặc. Rồi, đùng một cái, Lý có bầu. Bọn tụi tôi không ngạc nhiên chi mấy vì nhiều lần thấy nó thậm thà thậm thụt thủ thỉ thì thầm với một anh tù làm trật tự tên Kim. Anh chàng Kim này là bộ đội, làm nổ kho đạn nên bị tù mười tám năm. Cả hai đều bị cùm một thời gian vì tội quan hệ nam nữ trong tù.
Ngoài Lý, bà Phẳng cũng có người yêu là một công an như bà ta. Đúng là mãnh lực của tình yêu rất phi thường, vì từ ngày có bồ, bà ta hiền dịu hẳn ra, tiếng nói không còn the thé và tia nhìn không còn ác độc nữa. Bà ấy cũng không còn đì mấy tiểu thơ chúng tôi nữa và đôi khi còn hỏi han nói chuyện rút kinh nghiệm của những người đã nếm qua mùi vị ái tình. Tụi tôi tha hồ bày vẽ, nhưng mục đích là làm sao cho bà ta nhu mì hiền lành để tù chúng tôi đỡ khổ chút nào hay chút nấy.
Trong trại, số lượng tù nam gấp trăm lần tù nữ nên dĩ nhiên mấy nàng đắt giá lắm. Ong bướm dập dìu, có điều chỉ có liếc mắt đưa tình và những cánh thư xanh được lén lút trao tay thôi.
Chị em tôi lao động cực khổ ngoài đồng được khoảng nửa năm thì bên ngoài có phong trào cho người Hoa kiều được xuất cảnh bán chính thức. Những cô tiểu thư gốc người Hoa trong tù được người nhà lo lót thả về để xuất cảnh chung với gia đình nên phòng giam nữ bớt đi một số. Nhất là đội văn nghệ của trại cũng hao hụt đi nhiều, còn có mấy mạng loe ngoe không đủ ca múa.
Thiếu người trầm trọng nên lần này bang trưởng trại quyết liệt bắt Thu Thủy, tôi và vài cô tiểu thư nữa vào đội văn nghệ. Lần này không thấy ba tôi ban lịnh cấm nữa nên tụi tôi nhận lời. Theo quan điểm của ba tôi thì đội văn nghệ bị ông đánh giá không tốt là làm việc tuyên truyền cho đối phương. Còn theo tôi thì tất cả cũng là tù thôi, có điều mỗi người một hoàn cảnh, một thân phận khác nhau, cố gắng để giữ mạng mà qua khỏi kiếp tù. Không phải là tôi tự biện minh hoặc bênh vực cho các bạn trong đội văn nghệ, nhưng suốt thời gian ở trong đội và quen biết thêm với họ, tôi thấy ai cũng rất dễ thương, có tư cách và nhất là không bao giờ có hành vi bôi bác phản bội hàng ngũ cả. Ngược lại, họ còn lợi dụng sự ưu đãi được thoải mái trong sự đi lại để đóng vai liên lạc viên cho các đội khác, hoặc sẵn sàng giúp đỡ những ai cần họ giúp đỡ.
Thế là bắt đầu một thời kỳ mới, mấy đứa tôi ôm mùng mền và “giỏ lát” chuyển qua ở bên nhà riêng dành cho ban văn nghệ. Đây là một gian nhà nhỏ hai phòng ngăn bởi một tấm vách mỏng, một bên cho văn nghệ nam ở, một bên cho văn nghệ nữ. Mỗi phòng ở cỡ chục người. Buổi tối đến chín giờ tối mới tự khóa cửa không ai được phép ra ngoài phòng.
Vào đội văn nghệ, mấy tiểu thơ chúng tôi không còn phải xuống ruộng cấy lúa nữa mà thường là đi làm cỏ, phơi lúa, lột bắp, gọt khoai mì hoặc lặt đậu phộng vài giờ đồng hồ thôi. Nếu đi làm cỏ thì sáng sớm ra kho lãnh cuốc, xẻng rồi mỗi người một cái vác trên vai mà đi. Tôi nhớ là thường đi xa lắm, leo dốc rồi xuống dốc, rồi lại leo, hình như tổng cộng phải vượt qua cỡ ba cái đồi hay núi gì đó. Vác cái cuốc tới nơi rục cả người hết muốn làm. Đất thì khô cằn sỏi đá, trời thì nắng nóng muốn nổ đom đóm mắt, khổ hết sức. Cũng may cái ông công an coi đội văn nghệ cho tụi tôi cuốc cỡ vài ba tiếng thì rút quân về, để có thời gian 1, 2 tiếng tập múa hát.
Có hôm đi lột vỏ bắp, tôi bị 1 con bò cạp chui vào tay áo cắn 2 phát đau thấu trời xanh. Mấy bạn đem ngay tôi xuống trạm xá để xin thuốc trị độc. Thuốc thang chẳng ăn thua gì, cánh tay tôi bị sưng tấy sốt gần ba ngày. Trong tù thì rắn rít, bò cạp, chuột gián đầy rẫy, nhưng hình như chưa ai chết vì tụi nó. Nhiều khi đang ngủ mà rít bò lên mặt là thường. Có một lần tôi bị một con chuột hoảng loạn chui vô ống quần. Trời ơi là kinh! Tôi hết hồn nhảy tưng tưng, con chuột rớt ra chạy mất.
Lúc còn trong đội nữ tôi thấy có cô bị rắn lục cắn nhưng vẫn không sao. Nhưng tụi nó là tới số vì chị Phúc sẽ chụp cổ giết chết ngay và cô nào dạn sẽ được cho ăn thử món cháo rắn. Chị Phúc nghe nói là nữ quân nhân có tài bắt rắn rất giỏi. Nhiều ông thấy rắn là sợ nhưng chị Phúc coi rắn như pha. Chị ấy dùng hai ngón tay chụp ngay đầu con rắn, quay nó vài vòng là con rắn bị dãn xương chết ngắc.
Trong tù tôi được nếm đủ loại thịt lạ như thịt rắn, thịt cóc, dế, kỳ đà, và chuột. Không biết có phải là chuột đồng không, chắc mấy anh nói vậy cho bọn con gái đỡ ghê nhưng phải công nhận là trong tù ăn thịt gì cũng thấy ngon. Đói quá mà!
Đội văn nghệ thường làm lao động mỗi ngày 5, 6 tiếng còn cuối ngày thì tập dợt văn nghệ. Chúng tôi thường lén đàn hát những bài nhạc vàng bị cấm cho đỡ nhớ. Dĩ nhiên có anh Triệu Dân đội trưởng đội văn nghệ và một vài người khác canh chừng, nếu thấy phe địch (tức các giám thị) tới là ra ám hiệu đổi qua đờn hát nhạc đỏ ngay.
Văn nghệ trong tù chẳng có gì hào hứng, hấp dẫn. Cứ mấy bài ca cách mạng và mấy điệu múa nón, múa áo dài diễn đi diễn lại, nhưng có rất nhiều khán giả vì đây là dịp xổ lồng cho mọi người được ra khỏi phòng giam hít thở không khí trong lành dưới bầu trời đêm.
Tôi ở trong đội văn nghệ gần năm rưỡi, lần lần kiêm đủ mọi nghề ca hát, múa, kịch và cả làm MC giới thiệu chương trình. Thêm nhiều tiểu thơ mới bị bắt, vào đội rồi được thả. Nhưng ba đứa bị kẹt lại lâu là Thu Thủy, Mai Loan và tôi. Mai Loan cũng là bạn rất thân của tôi trong tù. Nó rất xinh, thông minh, vui vẻ và hoạt bát.
Bội Trà hơi cao nên bị ông bang trưởng bắt vô đội “Hát bộ” để đóng vai nữ tướng. Cô nàng vào tập vài bữa, giả bộ tắt tiếng hát không được xin ra bán căng-tin. Bội Trà ăn nói có duyên, làm việc này hợp lắm.
Thu Thủy, Mai Loan, Bội Trà và tôi ở tù hai năm thì được tha. Thời gian sống chung với nhau trong trại tù, cùng chịu hoạn nạn, cùng chia gian khổ, chúng tôi đã có một tình cảm dành cho nhau rất đặc biệt. Nhưng khi ra tù, do hoàn cảnh và điều kiện liên lạc, thường ít có cơ hội gặp nhau. Nhưng cũng mừng là phần đông đám tiểu thơ ở tù cùng thời gian với tôi đa số cũng đã sinh sống rải rác ở khắp nơi trên thế giới và có một cuộc sống ổn định nơi đất khách quê người.
Còn tôi, một trong các tiểu thơ ở tù ngày nào, sau những gian truân, vất vả và thăng trầm của cuộc đời, nay cũng đã đến được bến bờ tự do và đang có được một cuộc sống tạm gọi là bình an và hạnh phúc. Đã vượt qua được những kinh nghiệm gian khổ xa xưa nên ngày nay tôi có được một sức mạnh và một ý chí bền bỉ để khắc phục và vượt qua những khó khăn trong đời sống, cũng như những bước đầu hội nhập với cuộc sống mới nơi đất nước Hiệp chủng quốc này – Và, tôi lúc nào cũng trân quý, biết ơn một đất nước đang cho tôi Sự Độc Lập – Tự Do Thật sự mà tôi đã từng bị lấy mất.
Thanh Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét