Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 6 tháng 10, 2021

PARIS, MỘT TÂM HỒN CHÂN QUÊ - Đỗ Bình

 

DS Lệ Hoa, BSNguyênVăn Ba

Ngày tháng nơi xứ người trôi rất nhanh bốn mùa thay đổi, khi hoa xuân vừa chớm nụ khách yêu hoa chưa thưởng lãm hết những nét đẹp của mùa xuân đã thấy hạ sang. Nắng hồng vừa ấm ngọn lá thì gió thu chợt đến mang những chiếc lá vàng đi còn lại những chùm hoa tuyết mùa đông trên cành. Thời gian  như chiếc bóng âm thầm trôi, chỉ có những tâm hồn nghệ sĩ mới cảm nhận được cái bóng thời gian chấp cánh. Họ đã sống và hòa với nhịp thở của thời gian nên níu được quá khứ giữ cho dòng thời gian không bị đứt đoạn tan loãng, và đã minh họa nó qua áng văn vần thơ điệu nhạc để hoài niệm một thời xa khuất. Tâm hồn nghệ sĩ đôi khi vượt cả trước thời đại vọng lên tâm khúc bằng thứ ngôn ngữ riêng biệt mà người đương thời còn ngỡ ngàng chưa hòa điệu. Tâm hồn thi sĩ rất đa cảm đầy tình người, dễ rung động trước màu sắc muôn hoa để cảm nhận sự huyền diệu của thiên nhiên, nên luôn hướng về cái «đẹp và thiện».
<!>
Paris vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, trong sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam xuất hiện một «Văn Đoàn  mang tên VĂN BÁ»,  quy tụ một số nhà khoa bảng đã có tuổi nhưng rất yêu nghệ thuật sân khấu nên tự tập dượt để trình diễn những trích đoạn vở cải lương, những tuồng kịch cổ, hay những sáng tác mới cống hiến cho công chúng. Trưởng nhóm là nhà thơ Văn Bá.

Vài Nét Về Nhà Thơ Văn Bá:

 Ông tên thật là Nguyễn Văn Ba, bút hiệu Văn Bá,  sinh năm 1927 tại Gò Công, Định Tường, Tiền Giang. Trong thời gian theo học Y Khoa Hà Nội ông có thụ giáo Hán văn với cụ Tử An Trần Lê Nhân (Cử nhân Hán Học- tác giả Cổ Học Tinh Hoa). Ông sang Pháp du học và Tốt nghiệp Nhãn khoa chuyên môn Đại học Paris Thủ khoa khóa 1961. Nguyên Giảng nghiệm viên tại trung tâm nghiên cứu Khoa học quốc gia Pháp. (Centre National de la  Recherche Scientifique C.N.R.S).
Đã xuất bản :
:  Thơ: Nén Hương Hoài Niệm (1955) ở Sài Gòn trước khi du học, và tái bản 1998. Hương Tình Yêu (1999).Thơ Văn Bá được vào hợp tuyển năm 1998. Kịch: Lưu Bình Dương Lễ, Hồn Trương Ba Da Anh Hàng Thịt, ông soạn lại và đổi  là «Hồn Trương Ba Ma Anh Hàng Thịt. Cổ Loa, Tri Âm, Lệ Chi Viên.
 Hai vở kịch Lưu Bình Dương Lễ và Hồn Trương Ba Da Anh Hàng Thịt được diễn nhiều lần ở Paris. Ngoài ra Văn Bá còn viết và xuất bản những tập biên khảo, tiểu thuyết song ngữ.
Nhà thơ Văn Bá theo khuynh hướng Thơ Mới, ông chú trọng về phần tứ thơ nên bài hơi được dàn trải như những câu truyện ngắn để thuật những đề tài quê hương, danh nhân, di tích lịch sử, tình người và tình yêu đôi lứa.  Ông nói:
«Làm thơ để cho người hiểu, cũng như làm thiếu nữ cho người ta trêu. Đã đành thơ cần âm điệu cũng như thiếu nữ cần vẻ yêu kiều nhưng mà thơ mà hòa nhạc làm mất ý tứ thơ!”.  Hàng ngàn năm xưa thơ và nhạc đã hòa nhau, trong thơ có nhạc trong nhạc có thơ. Âm nhạc có lời dễ làm rung cảm lòng người, và thơ đã nhập vào cung bậc hòa thanh thành nhạc để diễn tả tâm tình. “thơ hòa nhạc làm mất tứ thơ».
Phải chăng nhà thơ e ngại người nhạc sĩ lúc sáng tác không để hết tâm hồn vào bài thơ thì sẽ làm giảm gía trị khúc phổ? Ônglàm rất nhiều thơ và có những bài thơ tình chưa in và chỉ đọc riêng cho bằng hữu. Trong số thơ đó, có những bài được chính tác gỉa chuyển sang Pháp ngữ để cho phu nhân của ông đọc giới thệu trong sinh hoạt văn học. Thơ tình của Văn Bá được chọn vào tuyển tập thơ: «500 bài Thơ Tình VN Và Thế Giới», do ông Khai Trí Nguyễn Hùng Chương xuất bản. Có một lần Nhà thơ Văn Bá đã phát biểu trong sinh hoạt văn học nghệ thuật: “Khối tình nào cũng vậy, thâm thúy nhất là lúc phân ly. Ở bất cứ một chế độ nào thơ tình vẫn sống như thường vì thơ tình mang con người về với nguyên thủy.”
Bài Hoài Tố là một trong những bài thơ đắc ý của nhà thơ nên Văn Bá đã đọc trong sinh hoạt văn học để các văn hữu thưởng thức.
HOÀI TỐ

Ta ước cùng nhau đến bạc đầu
Uyên ương liền cánh tựa bên nhau
Làm đôi bướm trắng trao duyên mãi
Ai có ngờ đâu vạn cổ sầu.
Tố Uyên em ơi đã hết rồi
Những đêm trăng dõi mái đầu soi
Đôi ta kề sát bên hiên vắng
Thỏ thẻ yêu nhau chẳng tiếc lời.
Những buổi bình minh rực ánh hồng
Cỏ cây còn đọng giọt sương trong
Ngắt hoa em cắm lên vành tóc
Anh mỉm cười khen đẹp lạ lùng.
Những buổi trưa hè bóng ngả nghiêng
Bên em anh kể chuyện hàn huyên
Lá vàng tơi tả rơi trên tóc
Em bảo tình ta lá cũng ghen.
Những buổi hoàng hôn xuống bến sông
Bên anh em dạo tiếng tơ đồng
Chim chiều ríu rít trong hoa lá
Anh bảo chim kia cũng thấu lòng.
Tình ta tưởng đẹp trọn ngày xanh
Chị nguyệt than ôi dối chúng mình
Nát ngọc châu chìm hoa vắn số
Cho ngày xuân thắm lỗi duyên lành.
Định mạng em ơi quá đớn đau
Giờ đây lòng trĩu mối u sầu
Thời gian không xóa mờ kỷ niệm
Hận tình đằng đẵng dễ nguôi đâu.   (Văn Bá)

Sinh Hoạt Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris:

Nhà thơ Văn Bá đến CLB sinh hoạt từ năm 1999 qua sự giới thiệu của giáo sư Bùi Sĩ Thành, một nhà biên khảo. Ở đây những tâm hồn đồng điệu đã gặp nhau, trong Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris có nhiều người là đồng nghiệp với ông, hoặc khác ngành nghề nhưng lại hợp về thơ văn. Ngày ông gia nhập CLB đã có một số văn thi nhạc sĩ tuổi cao đã mất,  nhưng tác phẩm của  họ vẫn lưu lại trong tâm hồn giới thưởng ngoạn. Trong lãnh vực văn học nghệ thuật những tác phẩm mang tính nghệ thuật có giá trị đích thực sẽ vượt thời gian thấm sâu trong lòng người. Câu Lạc Bộ được ví như vườn hoa nhỏ, mỗi người một vẻ tạo nhiều màu sắc hương thơm, điẻn hình: Nhà thơ Bằng Vân Trần Văn Bảng, dù là một giáo sư Y khoa nhưng bản tính lại nghệ sĩ bất cần đời nên làm thơ châm biếm. Những vần thơ Miếu Cười của ông đã được các văn hữu tặng cho ông cái mỹ danh là «ngông sĩ». Nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu còn gọi ông là Tú Gân để so sánh với những nhà thơ xưa như Tú Xương, Tú Mỡ. Nhà thơ Vân Uyên, GS Y Khoa Nguyễn Văn Ái được xem là ẩn sĩ vì ít xuất hiện trước đám đông, còn Nhà thơ Phương Du, BS Nguyễn Bá Hậu được mệnh danh là hiền sĩ. Riêng Nhà thơ Văn Bá BS Nguyễn Văn Ba nđược tặng cho mỹ danh đặc biệt là «Việt sĩ » vì ông xa quê hương rất lâu nhưngvẫn  còn giữ nhiều tính chất Việt Nam.
 Những lần họp thơ ở tư gia nhà thơ Văn Bá là mỗi lần ông vui sướng được đón tiếp một số bằng hữu, sự hân hoan tỏa trên ánh mắt, khuôn mặt và trong tiếng cười. Ở những lần ấy nhà thơ Văn Bá  say đắm đọc những bài thơ của mình vì được trình bày trước những tâm hồn đồng điệu: Học giả TS Thái Văn Kiểm, GS Bùi Sĩ Thành, Nữ Điêu khắc gia Anh Trần, Nhà thơ Đỗ Bình, nghệ sĩ Bích Thuận, nghệ sĩ Thúy Hằng, Nghệ sĩ Linh Chi, nhạc sĩ Trọng Lễ và Nhóm Văn Đoàn Văn Bá, Phu nhân ông cũng tham gia đọc những bài thơ Pháp của những thi sĩ lừng danh nước Pháp.
Vào hè năm 2000 Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức sinh hoạt chủ đề Chiều Tha Hương ở Viện Pháp Á, quy tụ nhiều khuôn mặt trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng ở Paris. Đặc biệt có nhà thơ Dư Thị Diễm Buồn ở Cali sang tham dự. Mở đầu chương trình văn học nghệ thuật, nhà thơ Song Thái người cao tuổi nhất đã đọc bài thơ của mình: «Thơ Là Gì?». Tiếp theo,  Nhà thơ Đỗ Bình giới thiệu tiểu sử và sinh hoạt văn học của Nhà thơ Dư Thị Diễm Buồn,  Nhà văn Hồ Trường An giới thiệu những thi phẩm của Dư Thị Diễm Buồn. Nhà thơ Phương Du nói về:«Ý Nghĩa của Sự Đau Khổ». GS Phạm Thị Nhung nói về:«Ý Nghĩa Của Hoa Đào trong thơ Thôi Hiệu». Hai Nhà thơ Bình -Huyên (Nguyễn Trọng Bình và Thùy Huyên) đọc bài thơ:«Đồi Sim». Nhà văn, nhà báo Tô Vũ Đố thơ. Nhà thơ Vân Uyên dù tuổi đời đã cao vẫn say đắm vần điệu, ông thả hồn với chất giọng Bắc để diễn ngâm bài: «Tình Chung Thủy» khiến hội trường vang âm thanh thơ. Tiếp theo là nhà thơ Văn Bá, ông phát biểu:

 “Dù không hẹn trước với BS Ái mà cả hai cùng đọc thơ tình. Ở bất cứ một chế độ nào thơ tình vẫn sống như thường vì thơ tình mang con người về với nguyên thủy.”

Với chất giọng mạnh của người miền Nam, Nhà thơ văn Bá đã diễn ngâm theo thể Lục Vân Tiên, bài: «Tình Thiên Thu». Lối đọc và diễn xuất của ông âm hưởng cách nói của các nghệ sĩ cải lương miền Nam: Năm Châu, Bảy Nhiêu, Út Trà Ôn, Năm Nghĩa, Hữu Phước của thời thập niên 40, 50. 
Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề Bên Trời Tưởng Nhớ do CLB VH VN Paris tổ chức vào ngày 15 tháng 6 năm 2002 tại Paris. Quy tụ nhiều khuôn mặt văn nghệ sĩ ở Paris và hải ngoại, sinh hoạt đã được GS Nguyễn Trọng Bình tức Nhà văn Bình Huyên đại diện ở Paris cho tuần báo Đại Chúng (Maryland Hoa kỳ) viết tường thuật. Nhà thơ Đỗ Bình: Trưởng ban tổ chức, Nhà thơ Phương Du : Khai mạc chương trình, BS Nguyễn Bá Linh: MC, Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng: MC. Nhà thơ, họa sĩ Lưu Nguyễn Đạt (Hoa kỳ) nói về Thơ Việt, Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh (NaUy) nói về tác phẩm: «Xóm Cầu Mới» của Nhà văn Nhất Linh. Nhà thơ, họa sĩ Nguyễn Hữu  Nhật (NaUy) nói vềTranh Dângian: « Lý Toét &Xã Xệ». Nữ sĩ Phạm Thị Nhung giới thiệu tác phẩm «Truyện Kiều và Tuổi Trẻ» của GS Lê Hữu Mục, GS Phạm Thị Nhung, DS Đặng Quốc Cơ. GS Nguyễn Thị Hoàng giới thiệu tác phẩm : Hồn Nước» của Nhà thơ TS Lưu Nguyễn Đạt. Nhà văn Hồ Trường An giới thiệu thi phẩm «Vùng Cao Nước Ẩn»của Lưu Nguyễn Đạt. Nhà thơ Vân Uyên  nói về người em trai là:«Nhà thơ, Nhạc sĩ Tử Phác»,  một trong những người bị tù trong vụ án « Nhân Văn Giai Phẩm», tác giả nhạc phẩm tiền chiến Tiếng Hát Quay Tơ, đồng tác giả với Lương Ngọc Châu viết bài : Tiếng Hát Lênh Đênh. Nhạc sĩ Trịnh Hưng Kể «Những Kỷ Niệm Về Nhà Thơ Hữu Loan» trong thời Kháng chiến. Nhà thơ Văn Bá cùng nhóm trình diễn tuồng Lưu Bình Dương Lễ : DS Lệ Sương trong vai Dương Lễ phu nhân, DS Lệ Châu trong vai Châu Long, Luật gia  Lê Vinh Quang trong vai Lưu Bình, DS Kim Hoa, DS Nguyễn Văn Đức … Những văn nghệ sĩ Paris: Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, Nữ sĩ Quỳnh Liên, GS Nghệ sĩ Bích Thuận, GS Quỳnh Hạnh, Nhà thơ Thụy Khanh, Nhà thơ Hà Lan Phương, Nhà thơ Thùy Huyên, Nhà thơ Nguyễn Mây Thu, Nghệ sĩ Thúy Hằng, Nữ họa sĩ Hồng Loan, Nữ điêu khắc gia Anh Trần, Bà Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Lệ, Phạm Thị Diễm (3 ái nữ Học giả Phạm Quỳnh), Nhà văn Trần Đại Sỹ, Nhà văn Mai Lý Cang, Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Nguyễn Thùy, … Nhà văn, nhà báo Tô Vũ, Nhà báo Phạm Hữu, Nhà báo GS Nguyễn Bảo Hưng, GS Võ Thu Tịnh, GS Bạch Thái Hà, nhiếp ảnh gia GS Bùi Sỹ Thành, BS Nguyễn Duy Tài, BS Phạm Đăng Thiện…Nhạc sĩ Xuân Lôi, Nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Nhạc sĩ Anh Việt Thanh, Nhạc sĩ Anh Huy, Nhạc sĩ Lê Phương, Nhạc sĩ Nguyễn Đình Tuấn, Nhạc sĩ Nguyễn Văn Toàn, Đạo diễn Trần SongTthu, Họa sĩ Vĩnh Ấn, Họa sĩ Lê Tài Điển …vv…Chủ nhiệm tuần báo Đại Chúng là Nhà báo Hoài Thanh đã dành trọn số báo để đăng. Xin trích lời tòa soạn: 

“Trong số báo 103 chúng tôi đặc biệt dành trọn Tuần Báo Đại Chúng  cho anh chị em văn nghệ sĩ Câu Lạc bộ Văn Hóa Việt Nam Paris, France, trước hết là để gởi niềm ưu ái và lòng kính trọng tri ân các anh chị em văn thi hữu đã cộng tác với TBĐC để truyền bá văn hóa và giữ gìn ngôi nhà văn hóa Việt Nam được đơm hoa kết trái. Sau đó chúng tôi muốn vinh danh những nhà trí thức, những văn nghệ sĩ lão thành mà tài năng, đức độ, sự khiêm tốn và tình yêu thương gắn bó của qúy vị rất xứng đáng là một điển hình tốt, gương mẫu, mực thước cho tất cả mọi người nhìn vào đó học hỏi. Chúng tôi có thể nói rằng ngôi nhà Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris là một tổ ấm của tất cả văn nghệ sĩ khắp nơi. Chúng ta có thể tìm thấy hơi ấm của nơi đó tình người trong những câu chuyện mà những anh chị văn nghệ sĩ viết về bạn bè về những ngày xưa xa lơ, xa lắc. Chúng ta cũng thấy nơi đó sự tôn trọng lẫn nhau giữa các văn thi hữu của các thế hệ khác nhau về tuổi đời, tuổi nghề nhưng vẫn chung vai sát cánh xây dựng giữ gìn nền văn hóa Việt Nam. Chúng ta còn tìm thấy nơi đó những con người dày dạn kinh nghiệm trong cuộc đời, vững chắc nghề nghiệp cũng như văn chương chữ nghĩa và phương thức hành văn trong sáng, chọn lọc. Chúng tôi xin kính mời qúy vị viếng thăm Paris hoa lệ bằng những bài viết TBĐC đăng tải trong số báo này. Nội dung của những câu thơ, câu văn, tiếng nhạc lời ca sẽ được đôi uyên ương Bình- Huyên diễn tả trong bài:” Buổi Sinh Hoạt Văn Học Nghệ Thuật Câu Lạc Bộ văn Hóa Việt Nam Paris”.  Xin được kết thúc lá thư tòa soạn bằng lời nói đầy ý nghĩa sâu sắc của nhà thơ Đỗ Bình, người lãnh đạo tài năng của Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris: “Văn chương thi phú và nghệ thuật Việt Nam hải ngoại mặc dù đang được mùa, đã không tránh khỏi một vài tiếng chì tiếng bấc. Dĩ nhiên đó là quyền tự do của mỗi người, tuy nhiên xin trân trọng yêu cầu cả người yêu lẫn kẻ ghét hãy chịu khó mà xem xét thực hành hai điều. Thứ nhất là hãy để cho người ta tự do sống. Thứ hai là hãy chung sức gìn giữ cái cuối cùng trong kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam của đầu thế kỷ này, vì Thi sĩ e rằng đến cuối thế kỷ 21 kho tàng đó sẽ chịu nạn, thất mùa rất lớn mà không cứu vãn được.”

Vào thu 14 tháng 09 năm2003, một số nhân sĩ trí thức ở Lyon đã tổ chức ngày văn hóa, và cũng là dịp muốn vinh danh một số văn nghệ sĩ ở Paris và hải ngoại đã đóng phần vun sới cho văn hóa Việt. Những người được mời diễn thuyết văn học nghệ thuật : GS Lê Mộng Nguyên, Nhà thơ Đỗ Bình, Nhà văn Hải Triều từ Canada qua, nhà phê bình Nguyễn Thùy, Nhạc sĩ Trịnh Hưng, Nhạc sĩ Trần Ngọc Hải (Linh mục), nhà thơ Văn Bá và nhóm kịch nghệ. Sân khấu đại hí viện lớn, tất cả khách được mời đều phải lên hàng ghế trên sân khấu đối diện với khán giả. Chương trình khai mạc lúc 14h00, và nhóm Văn Bá trình diễn tuồng lúc 17h30. Hơn 3 giờ ngồi phải đối diện với  những cặp mắt của 500 khách, Nhà thơ Văn Bá và các bằng hữu vẫn giữ bình tĩnh diễn thuyết, diễn xuất tuồng cổ. Buổi tổ chức rất thành công. Sau đó các bạn lấy xe lửa tốc hành trở về Paris.  Buổi sinh hoạt mang chủ đề: Hồn Đại Việt, mở đầu phần văn học, Học giả, TS Thái Văn Kiểm giới thiệu tác phẩm mới của Văn Bá, ông khen ngợi và nêu ra những cái hay nét đẹp trong tác phẩm.


(Mạnh Bích, Trịnh Hưng, Đỗ Bình, Lê Mộng Nguên, Xuân Lôi)
 Qua phần nghệ thuật Nhà thơ Đỗ Bình đã giới thiệu 3 thế hệ nhạc sĩ sáng tác hiện đang có mặt. Thế hệ đầu gồm các nhạc sĩ: Nhạc sĩ Xuân Lôi (Sinh trong gia đình văn nghệ nên vào làng âm nhạc ngay từ thuở còn nhỏ, những nhạc phẩm nổi tiếng của ông viết chung với các nhạc sĩ khác như Y Vân, Nhật Bằng, Lữ Liên... Nhạc phẩm Bâng Khuâng là ca khúc đầu tay ông viết năm 1947, bài Về Làng Cũ, cùng với Nhật Bằng năm 1949, bài Nhạt Nắng, cùng với Y Vân năm 1955, bài Đường Chiều, cùng với Lữ Liên năm 1956. Hương Giang Mong Nhớ, cùng với Dương Thiệu Tước viết năm 1959.), Nhạc sĩ Lương Ngọc Châu (Là một danh thủ vĩ cầm ở đất Hà Thành trước năm 1954, thày của một số nhạc sĩ nổi tiếng sau này ở trong Nam. Ông qua Pháp rất sớm, do đó giới thưởng thức âm nhạc miền nam ít có biết! Bài Tiếng Hát Lênh Đênh của nhạc sĩ Lương Ngọc Châu mang chất thính phòng, bán cổ điển nên đòi hỏi một chất giọng ấm, sang và kỹ thuật trình bày điêu luyện. Bài này đã được Tài tử Ngọc Bảo trình bày ở Hà Nội trước năm 1954, Sau năm 1954 ở Sài Gòn do danh ca Sĩ Phú, và ở hải ngoại do BS, nhạc sĩ Phạm Anh Dũng soạn lại hòa âm và trình bày). Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên(Với số tác phẩm đồ sộ lên đến vài trăm ca khúc, trong đó có những nhạc phẩm đã được chọn làm nhạc phim như: BỤI ĐỜI vào năm 1957 do Lê Mộng Hoàng làm đạo diễn, nhưng bài Trăng Mờ Bên Suối viết năm 1949 là nổi hơn cả. Vì là một bài thơ được chính tác giả soạn thành nhạc nên đã lột tả tận cùng của cảm xúc qua âm thanh, gợi lên một không gian lãng mạn, với những hình ảnh mơ mộng của tình yêu lứa đôi. Lời và nhạc hài hòa dễ đi vào lòng người đã in đậm dấu hơn những ca khúc khác của tác giả! Mặc dù lời ca và cấu trúc của những nhạc phẩm đó không thua gì bài Trăng Mờ Bên Suối).  Nhạc sĩ Trịnh Hưng (Bài Tôi Yêu và Lối về Xóm Nhỏ...vv...của nhạc sĩ Trịnh Hưng rất nổi tiếng được trình bày liên tục từ thập niên 50 cho đến nay, bài hát đã hòa vào trong những vũ khúc dân gian). Nhạc sĩ Mạnh Bích (Bài Thôn Trăng là tác phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Mạnh Bích viết sau năm 1954 ở Huế, được ca sĩ trình bày rất nhiều lần vào những năm đầu thập niên 60).  

Nhạc sĩ Phạm Đình Liên (Bài Hẹn Một Ngày Về 1957 đang du học ở Pháp). Thế hệ kế tiếp gồm các nhạc sĩ: Phạm Đăng, Trần Văn Toàn, Ngọc Bích, Nguyễn Minh Châu. Thế hệ trẻ gồm: Các nữ nhạc sĩ: Linh Chi, Trang Thanh Trúc, Tố Liên. Đây là lần đầu tiên ở Paris những nhạc sĩ khác thế hệ về lãnh vực sáng tác nhạc Việt gặp nhau để tâm tình nghệ thuật. Hiện diện đêm nay còn có một số nhạc sĩ sáng tác khác nhưng có lẽ vì khiêm tốn chưa muốn giới thiệu. Sau buổi họp mặt văn nghệ đó một thời gian, những nhạc sĩ như: Xuân Lôi, Lương Ngọc Châu, Trịnh Hưng, Mạnh Bích đã giã từ thế giới âm nhạc, vĩnh viễn ra đi tìm cõi khác.
Nhà thơ Văn Bá dù qua Pháp từ giữa thập niên 50, và kết hôn với một phụ nữ bản xứ nhưng ông vẫn giữ một tâm hồn thuần Việt. Văn Hóa Việt đã ảnh hưởng sâu đậm đến người ngẫu phối của ông nên Bà đã có những phong cách ứng xử dịu dàng, phúc hậu giống như những phụ nữ Việt Nam trước năm 1954 ở miền Bắc, và trước năm1975 ở miền Nam. Bà yêu chồng nên yêu văn hóa Việt hòa mình vào không gian Việt Nam thu hẹp. Bà thường mặc áo dài để dự những buổi lễ tết, họp văn  thơ, hay những buổi diễn thuyết bằng tiếng Việt, bà ngồi nghiêm trang, im lặng hàng giờ bên cạnh nhà thơ Văn Bá. Có thể nói  Bác sĩ Nguyễn Văn Ba là một trong những người Việt thành đạt ở Paris, thành đạt ở đây bao hàm cả lãnh vực vật chất. Nhưng ông lại rất khiêm nhường, tự trọng, biết tôn trọng người khác. Nhà thơ Văn Bá  rời quê hương lúc trẻ nhưng đã mang theo quê hương trong tâm hồn, cái quê hương đậm chất phù sa chân tình mộc mạc đầy cây trái ngon ngọt. Bản tính hiền hòa chơn chất hiện rõ trong cách sống, ngôn ngữ và cách giao tế với bằng hữu nên ông được mọi người nể trọng và qúy mến. Đặc biệt các người em của ông dù tuổi đã cao, có học thức và địa vị trong xã hội nhưng một lòng kính trọng ông.
Nhà thơ Văn Bá đã từ giã cõi đời năm 2015 ở Paris để về miền miên viễn.

Đỗ Bình


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét