Bảo Đại đã nhân danh chống Pháp để thoái vị và trao quyền cho Cộng sản lãnh đạo cuộc chiến, kết thúc bằng trận đánh cuối cùng tại Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954. Oái oăm thay, chính đế quốc Pháp đã đặt Bảo Đại trở lại trên ngai vàng để chống lại Cộng sản Bắc Việt sau khi, tại Hà Đông, Cao ủy Bollaert tuyên bố Pháp muốn tái đàm với cánh Quốc Gia. Tháng 8/1948, Bảo Đại chỉ định Trung tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập “Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời VN.” Dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại, qua những nội các liên tiếp, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc, Miền Nam VN rơi vào cảnh hỗn loạn. Cuối cùng, nhà vua phải kêu cứu đến chí sĩ Ngô Đình Diệm ngày 9/7/1954, mặc dù trước đó ông Diệm đã ba lần thoái thác.
Hiệp Ước Đình Chiến Genève ký kết ngày 21/7/1954 chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17. Bảo Đại gây khó khăn cho ông Diệm bằng cách từ Cannes gởi hai công điện liên tiếp, ngày 28/4 và 30/4/1955, triệu hồi Thủ Tướng Diệm qua Pháp để “tham khảo ý kiến”, vì ông Diệm khai trừ tướng Nguyễn Văn Hinh, không chấp nhận Tướng Nguyễn Văn Vĩ như tân Tổng Tư Lệnh Quân Đội, cương quyết kết thúc kế hoạch dẹp giáo phái, quét sạch Bình Xuyên và giải tán tổ chức võ trang UMDC của Leroy. Ý đồ của Bảo Đại là thay thế Thủ Tướng Diệm, có thể bằng Lê Văn Viễn tự Bảy Viễn, sếp sòng Bình Xuyên, lúc đó đang nắm giữ guồng máy Cảnh Sát, Công An và kiểm soát sòng bài Đại Thế Giới để cung cấp tiền nong cho Quốc Trưởng.
Bị lấn vào chân tường, TT Diệm phúc đáp: Hội Đồng Nội Các không đồng ý để ông xuất ngọai giữa tình thế rối ren của xứ sở và một Hội Nghị các Chính Đảng và Nhân Sĩ Quốc Gia sẽ được triệu tập ngày 29/4/1955 tại Dinh Độc Lập để cho biết ý kiến “Thủ Tướng có bổn phận thi hành lệnh triệu thỉnh của Quốc Trưởng hay không?”. Hội nghị này gồm có 18 chính đảng / đoàn thể và 29 nhân sĩ Miền Nam. Đặc biệt, ba tổ chức nổi bật vì có thực lực: VN Dân Xã Đảng (Hoà Hảo) mà bí thơ là Nguyễn Bảo Toàn, VN Phục Quốc Hội (Cao Đài) do Hồ Hán Sơn thay mặt và Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến VN của Trình Minh Thế, do Nhị Lang đại diện.
Nhị Lang, tác giả của quyển sách “Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế” (nxb Alpha, Virginia, 1989), kể lại: đúng 10 giờ sáng ngày ghi trên, Thủ Tướng Diệm tiến vào phòng họp với vẻ mặt ưu tư, tuyên bố vắn tắt lý do, xong kiếu từ ngay, “để Quý Ngài được tự do thảo luận”. Hội nghị bầu Nguyễn Bảo Toàn vào ghế Chủ Tọa, Phạm Việt Tuyền vào ghế Tổng Thư Ký.
Như đã thoả thuận với nhau từ trước, Nhị Lang, Nguyễn Bảo Toàn và Hồ Hán Sơn khai pháo bằng cách đặt thẳng với Hội Nghị một vấn đề duy nhất: truất phế Bảo Đại, khỏi bàn đến chuyện gì khác. Nếu Hội Nghị từ chối chương trình nghị sự này, ba đoàn thể của họ sẽ rút lui liền. Bầu không khí cực kỳ sôi động. Bên ngoài, lúc đó, từ cầu chữ Y, quân Bình Xuyên pháo kích xung quanh Dinh Độc Lập. Các tổ chức và phần tử ủng hộ từ lâu Thủ Tướng Diệm tỏ ra quá khích. Nhà báo Bùi Quang Nga, bút hiệu Văn Ngọc, vừa hô to “Đả đảo Bảo Đại”, vừa tuột giày, ném vào bức chân dung đồ sộ của Cựu Hoàng treo trên vách phòng khánh tiết.
Tiếp theo, nhiều nhân vật như Vũ Văn Mẫu, Hoàng Cơ Thụy... công kênh Nhị Lang lên vai họ để triệt hạ chân dung này, giữa tiếng hoan hô vang dội. Hội nghị bầu ra một Ủy Ban Cách Mạng, sau đổi là Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, rồi Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia, thể theo ý kiến của một số nhân vật “ôn hoà” lo ngại chính quyền Diệm sẽ không kiểm soát nổi khuynh hướng cực đoan. Hội Đồng này gồm có Nguyễn Bảo Toàn (Chủ Tịch), Hồ Hán Sơn (Phó Chủ Tịch), Nhị Lang (Tổng Thư Ký) và một số Ủy Viên như Hoàng Cơ Thụy, Trần Thanh Hiệp, Đoàn Trung Còn, Hoàng Phố, Văn Ngọc, bà Đức Thọ, Huỳnh Minh Ý, Hà Huy Liêm và Nguyễn Hữu Khai. Cuối cùng, Hội Nghị đưa ra một bản Quyết Nghị nảy lửa, gồm ba điểm:
– Truất phế Bảo Đại,
– giải tán Chính Phủ Diệm,
– ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời, tổ chức tổng tuyển cử, tiến tới chế độ Cộng Hoà.
Lúc 5 giờ chiều, sau phiên nhóm kéo dài 7 tiếng, Chủ Tịch Nguyễn Bảo Toàn mời Thủ Tướng Diệm xuống phòng họp nghe kết quả. Nhị Lang viết: “Khi Thủ Tướng nghe xong, tôi thấy mặt ông tái hẳn đi. Tôi chắc ông không ngờ Hội Nghị này lại quay sang một chiều hướng khác và lôi kéo ông đi một bước quá xa như vậy... Thủ Tướng Diệm lộ vẻ đăm chiêu và nói bằng một giọng trầm mặc: ‘Xin quý ngài cho tôi được có thời giờ suy nghĩ kỹ về vấn đề trọng đại này!’” (trang 310).
Qua ngày 30 tháng 4, lại một cuộc tập họp đông đảo khác tại phòng khánh tiết Toà Đô Chính Sài Gòn để triệt hạ hình Bảo Đại và nghe Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Nhị Lang tường trình. Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương và Nguyễn Giác Ngộ xuất hiện, dân chúng hoan hô. Một Hội Đồng Chỉ Đạo được thành lập, gồm có ba tướng giáo phái này, để bao trùm lên Ủy Ban Cách Mạng, theo lời đề nghị đầy tham vọng của Nguyễn Thành Phương. Khi sáu nhân vật vừa kể lập một phái đoàn vào Dinh Độc Lập lúc 6 giờ chiều, để thông báo cho Thủ Tướng thì họ thấy lối 50 sĩ quan Quân Đội Quốc Gia có mặt ở tầng dưới và hai tướng Nguyễn Văn Vỹ và Lê Văn Tỵ trong phòng khách nhỏ ở tầng trên.
Trong hối ký “Việt Nam Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu, 1989), Trần Văn Đôn kể lại: Trưa 29/4/1955, Vỹ và Đôn đến nhà tướng Tỵ yêu cầu trao quyền cho Vỹ theo sắc lệnh của Bảo Đại, ông Tỵ trả lời: “Tôi sẵn sàng nếu Thủ Tướng ra lệnh”. Tất cả đồng ý vào gặp Thủ Tướng. Chỉ có Đổ Cao Trí đòi ở lại: “Các anh vô đi. Nếu có gì xảy ra, tôi đến vây Dinh Độc Lập.”
Một bi kịch bất ngờ xảy ra làm đảo lộn lịch sử Đất nước: Với sự chấp thuận của Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương, Nhị Lang lặng lẽ đột nhập vào phòng khách, chĩa thẳng khẩu súng Colt 45 vào người tướng Vỹ, hô to: “Giơ tay lên, không tôi bắn!”. Vỹ hoảng hốt giơ tay khỏi đầu. Tướng Tỵ liều mạng chạy lại ôm lấy Nhị Lang nhưng bị gạt ra. Nhị Lang gọi Hồ Hán Sơn, chỉ về phiá Vỹ: “Hãy bóc ga lông của ông này cho tôi!”, Sơn làm ngay. Phóng viên Francois Sully chụp được tấm hình và cho đăng vào báo Life, số phát hành tháng 7/1955. Bộ trưởng Trần Trung Dung cấp báo với Thủ Tướng: “Cụ! Cụ! Chúng nó đang định bắt giết ông Vỹ!”. Thủ Tướng Diệm vội ra kéo Vỹ vào phòng. Cố Vấn Nhu chạy đến can gián Nhị Lang: “Thôi đừng nóng, mấy ông Tướng đang họp bàn với Cụ”.
Trả lời người viết, Nhị Lang cho biết những diễn tiến sau đó: Trong một buổi họp liền tiếp theo giữa Thủ Tướng Diệm, Nhị Lang, Hồ Hán Sơn và hai tướng Vỹ, Tỵ trong phòng ngủ (vừa dùng làm văn phòng) của ông Diệm, Tướng Vỹ cuối cùng – để được tự do – chịu ký một tuyên ngôn ngắn “tự nguyện từ bỏ hết mọi quyền hành chức chưởng do Bảo Đại ban cho và tự nguyện gia nhập hàng ngũ Cách Mạng” (nguyên văn). Ngoài ra, lấy lại được chức Tham Mưu Trưởng, Tướng Tỵ cũng bảo đảm “Vỹ sẽ không làm phản”. Trong suốt phiên họp, Đỗ Cao Trí và hai Tiểu Đoàn Ngự Lâm Quân bao Dinh Độc Lập để gây áp lực, không ngớt kêu vào xin nói chuyện với Vỹ. Rốt cuộc, họ êm thắm rút lui vì bị kềm kẹp giữa hai đối thủ, phía trước là toán binh phòng vệ Dinh Độc Lập của Đại tá Vinh, phía sau là các đơn vị Cao Đài của Nguyễn Thành Phương bố trí tại đường Trần Quý Cáp và Liên Minh của Trình Minh Thế phục kích ở đường Phan Đình Phùng.
Ngày hôm sau, theo Trần Văn Đôn trong hồi ký, Tướng Vỹ họp báo cho biết Quân Đội sẽ đảo chính vì Thủ Tướng Diệm bị Thế, Toàn và Nhị Lang lấn quyền. Các sĩ quan nhóm, có mặt Nguyễn Hữu Có, Dương Văn Đức, Trần Văn Đôn... Lê Văn Tỵ hỏi:
– Các anh làm gì đó?
Vỹ đáp:
– Tôi đảo chính!
Tỵ:
– Anh lấy gì để đảo chính?
Vỹ:
– Quân Đội.
Tướng Tỵ lột sao của mình bỏ xuống bàn:
– “Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi không theo anh đâu!”
Nguyễn Văn Vỹ và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó qua Cao Miên rồi sang Pháp sống lưu vong. Điểm đáng lưu ý là trong quyển “Le Dragon d’Annam”, Bảo Đại rất vắn tắt, không kể lại những chi tiết trên đây, chỉ ghi rằng ông đồng ý cho Tướng Vỹ đảo chính Thủ Tướng Diệm và phủ nhận tính cách hợp pháp của Hội Nghị Toàn Dân ngày 29 tháng 4/1955.
..............
Ngô Đình Diệm có sẵn sàng truất phế Bảo Đại hay không?
Đa số các tác giả trả lời: Không. Trừ Đỗ Mậu (“VN Máu Lửa Quê Hương Tôi”, nxb Hoa kỳ 1986). Tất cả những ai từng tiếp xúc với ông Diệm đều nhận xét ông luôn luôn giữ thái độ khiêm cung thành tín, khi nói đến các vua chúa triều Nguyễn, kể luôn Bảo Đại, mà ông không bao giờ phê bình thiếu lễ độ. Người viết còn nhớ, sau 1956, khi ban Sắc Lệnh cải tổ hành chính, Tổng Thống Diệm đặt trọng tâm vẽ lại bản đồ các tỉnh Miền Nam (thay đổi ranh giới, đặt tên mới, tổ chức quy chế xã, quận và đô thị, v.v.) nhưng giữ nguyên các cơ chế tại Miền Trung do các vua chúa đặt ra, vì cho rằng tổ chức này không cần canh tân. Khi Bộ Nội Vụ, do người viết phụ trách, làm thủ tục tịch thu tài sản của Cựu Hoàng, Tổng thống ra lệnh nới tay, giúp Đức Từ Cung có phương tiện sinh sống đầy đủ và chỉ thị cho các Tỉnh Trưởng trùng tu lăng tẩm của những đấng Tiên Đế.
Chính Nhị Lang thường xác nhận nhiều lần với người viết rằng, Thủ Tướng Diệm không hiện diện khi Hội Đồng Cách Mạng lấy quyết định truất phế Bảo Đại, ông Diệm tỏ vẻ không thoải mái nhận quyền ủy nhiệm của Hội Đồng và không ngờ mọi việc diễn tiến ngoài mọi dự tính như vậy.
Nhị Lang viết trong hồi ký: “Cái Ủy Ban Chỉ Đạo do sáng kiến của Nguyễn Thành Phương đã gieo nghi ngờ trong lòng Thủ Tướng Chính Phủ, càng ngày càng ác cảm với Tướng Phương và đưa Phương đến chỗ suy bại”. Để kềm hãm những thành phần “cách mạng quá khích”, ông Nhu gài những cán bộ thân tín như Hà Huy Liêm, Văn Ngọc, Nguyễn Hữu Khai và Huỳnh Minh Ý vào Hội Đồng để gây lục đục. Mặt khác, Bộ Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành và Tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Tổng Gíam Đốc Cảnh Sát– Công An, áp dụng nhiều biện pháp tạo khó dễ.
Trong “Việt Nam Nhân Chứng”, trang 133, Trần Văn Đôn viết: Theo ông Nhu kể lại, trước ngày trưng cầu dân ý, Thủ Tướng Diệm tự tay viết một là thư dài giải thích tình hình và mời Bảo Đại về nước lãnh đạo, nhưng Cựu Hoàng đòi một triệu mỹ kim. Trong “Le Dragon D’Annam”, trang 342, Bảo Đại cho biết ông không đồng ý lập một Chính Phủ lưu vong, không chịu «dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới» và phủ nhận chính sách Ngô Đình Diệm. Cựu Chủ Tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ nhận xét nơi trang 30 của hồi ký “VN, Où est la Vérité?” (nxb Lavauzelle, Paris 1989): Trên phiếu, dân chúng có thể chọn trả lời một trong hai câu hỏi:
1) Tôi truất phế Bảo Đại và chọn Ngô Đình Diệm như Tổng Thống VN với sứ mạng lập một thể chế Cộng Hoà hay
2) Tôi không truất phế Bảo Đại và không công nhận Ngô Đình Diệm như Tổng Thống để thành lập thể chế Cộng Hoà. Kết quả: ông Diệm thắng 98.2%. Tỷ lệ này có vẻ không hoàn toàn trung thực, dù quần chúng mến mộ nhiệt tình ông Diệm lúc đó.
Bầu Quốc Hội Lập Hiến (tháng 3/1956) và ban hành Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hoà (ngày 26/10/1956).
Quốc Hội Lập Hiến gồm có 134 Dân Biểu thuộc bốn đảng thân Chính Phủ, không có đối lập. Ủy Ban soạn thảo Hiến Pháp gồm có Trần Văn Lắm (Chủ Tịch), Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung, Vũ Quốc Thông và Trương Vĩnh Lễ. Hiến Pháp phỏng theo các Hiến Pháp Hoa Kỳ và Pháp. Phủ Tổng Thống đề nghị tu chính một số điều khoản, Quốc Hội chấp thuận. Việt Nam là một nước Cộng Hoà theo thể chế độc viện, có một Tổng Thống và Phó Tổng Thống cử theo lối phổ thông đầu phiếu. Hiến Pháp không chấp nhận một người có thể nắm giữ hai chức Hành Pháp và Lập Pháp. Không có điều khoản nào cho phép truất phế, impeach, khi Tổng Thống phạm trọng tội. Ngày 26/10/1956 ban hành Hiến Pháp được chọn làm Ngày Quốc Khánh. Trần Văn Lắm và Vũ Quốc Thông là Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch đầu tiên của Quốc Hội.
Uy quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mỗi ngày thêm vững, ít nữa cho đến cuối 1960. Ngày 20/7/1955, Chính Phủ Diệm tuyên bố không chấp nhận chuẩn bị Tổng Tuyển Cử qui định bởi Hiệp Ước Genève. Với sự cộng tác của Bộ Nội Vụ do người viết phụ trách, Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại để đuổi về Bắc Phái Đoàn Văn Tiến Dũng trong Ủy Hội Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến (gồm có Ba Lan và Ấn độ). Văn phòng đại diện CS đặt tại khách sạn Majestic, Bến Bạch Đằng. Majestic bị phóng hoả, gây thiệt hại trên 5 triệu bạc, cũng như một khách sạn khác mang tên Galliéni ở đường Trần Hưng Đạo. Văn Tiến Dũng và các đồng chí thoát thân về trại của chúng ở Gia Định, bên cạnh nhà thương Nguyễn Văn Học. Nhiều ngày liên tiếp, đồng bào di cư, sinh viên, học sinh cô lập họ bằng những lời chửi rủa thậm tệ. Điện, nước, lương thực bị cúp hoàn toàn.
Cuối cùng Ủy Hội liên lạc với Chính Phủ xin bảo đảm cho Phái Đoàn Bắc Việt rời Sài Gòn. Tổng Nha Cảnh Sát/Công An cho những chiếc xe nhà binh bít bùng chở quần chúng lúc trời hừng sáng đến Tân Sơn Nhứt dưới tiếng hô đả đảo vang dậy của quần chúng. Tác giả bài này đích thân đến phi trường kiểm soát mọi thủ tục. Vào lúc máy bay Ủy Hội sắp cất cánh, một sĩ quan CS hốc hác, đầu đội nón cối, không mang phù hiệu, bước đến chào người viết theo lối nhà binh, tự xưng là Thiếu tá Văn Tiến Dũng (Cấp bậc sau này là Đại Tướng). Y tỏ lời cám ơn Ủy Hội đã giúp Phái Đoàn Bắc Việt rời Sài Gòn ra đi được an toàn trong trật tự.
Ngô Đình Châu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét