Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Những Lò Đào Tạo Ca sĩ của Một Thời Sàigòn Đáng Nhớ - Trúc Giang MN


Nguyễn Đức* Ngọc Chánh*Hoàng Thi Thơ*Nguyễn Văn Đông*Duy Khánh
1* Mở bài
Miền Nam trước năm 1975 là vùng đất màu mỡ, phì nhiêu cho cây tự do đơm hoa kết trái. Văn nghệ và âm nhạc cũng do đó là phát triển với muôn màu, muôn sắc vô cùng rực rỡ.Có thể nói nền tân nhạc Việt Nam nầy là thời kỳ cường thịnh nhất lịch sử. Môi trường văn nghệ mở rộng, là nơi để tuổi trẻ phát triển năng khiếu và tranh đua thi thố tài năng âm nhạc.
<!>
Nhạc sĩ nổ lực sáng tác vì được tự do diễn đạt cảm xúc của người nghệ sĩ. Nhưng điều quan quan trọng nhất là người dân miền Nam, đủ ăn đủ mặc, sẵn còn cái tâm trạng để thưởng thức âm nhạc qua các đài phát thanh, phát hình, đại nhạc hội, phòng trà ca nhạc và vũ trường. Các trung tâm băng, dĩa cũng góp phần truyền tải âm nhạc đến quần chúng. Cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ, món ăn tinh thần không thể thiếu. Âm nhạc lên ngôi.

Âm nhạc lớn mạnh kéo theo các lò đào tạo ca sĩ, các lớp nhạc, cung ứng tài năng âm nhạc cho miền Nam.

Sau năm 1975 nền âm nhạc đó đã được hồi sinh tại hải ngoại với những trung tâm tổ chức trình diễn và sản xuất băng, dĩa nhạc như Trung Tâm Asia, Thúy Nga Paris, Vân Sơn và nhiều trung tâm khác.

2* Các lò đào tạo ca sĩ trước 1975

Trước năm 1975 các ca sĩ thành danh xuất thân từ các lò đào tạo, từ các phòng trà ca nhạc, vũ trường, phong trào văn nghệ học đường, phong trào nhạc trẻ, các đoàn văn nghệ của Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị.
Lò nhạc có nhiều môi trường để lăng xê đệ tử của mình, nổi tiếng nhất là lò Nguyễn Đức, đã đào tạo nhiều ca sĩ thành danh trong làng nhạc Việt Nam. Kế đến còn có các lò nhạc như Tùng Lâm, Duy Khánh, Bảo Thu, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn Văn Đông…

3* Lò nhạc Nguyễn Đức với các ca sĩ tên Phương

Kim Loan Phương Diễm Hạnh

Nhạc sĩ Nguyễn Đức đã đào tạo nhiều ca sĩ thành danh nhất trước 1975. Một lô ca sĩ tên Phương gồm Phương Hồng Loan, Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc, Phương Diễm Hạnh (1999 ở Canada) và trước đó có Hoàng Oanh, Kim Loan và Thanh Lan, hai danh hài Thanh Hoài và Trần Tỷ. Nguyễn Đức còn đào tạo xướng ngôn viên cho đài phát thanh và truyền hình gồm có Bạch Yến, Xuân Kiều, Phương Hồng Trinh.

Lò nhạc nào cũng có môi trường để lăng xê đệ tử của mình trước công chúng. Nhạc sĩ Nguyễn Đức có hai chương trình trên đài truyền hình và hai chương trình ở đài phát thanh để đánh bóng đệ tử của mình. Đài truyền hình số 9 có Ban Thiếu Nhi Sao Băng với 40 thiếu nhi, và Chương Trình Ban Gia Đình Văn Nghệ Nguyễn Đức. Ở đài phát thanh có Ban Việt Nhi và Ban ABC.
Hơn nửa thế kỷ đào tạo ca sĩ từ trong nước ra tới hải ngoại, với bàn tay phù thủy nhạc sĩ Nguyễn Đức đã biến những thiếu nhi trong ban Việt Nhi và ban Thiếu Nhi Sao Băng trở thành những ca sĩ nổi tiếng hiện nay.

Ra hải ngoại năm 1991, định cư ở Toronto, Canada. Về Việt Nam nhạc sĩ Nguyễn Đức mất tại Sài Gòn ngày 25-5-2015. Thọ 86 tuổi.

4* Ca sĩ Thanh Lan
4.1. Vài nét tổng quát về Thanh Lan

Trước năm 1975, trong lãnh vực sân khấu và điện ảnh Việt Nam nổi bật lên sáu mỹ nhân tài sắc: Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Thanh Nga, Mộng Tuyền và Thanh Lan. Trong đó Thanh Lan là một hiện tượng khá đặc biệt, một tài năng hiếm có và đa dạng, đã thành công trên ba lãnh vực: âm nhạc, kịch nghệ và điện ảnh.

Thanh Lan nổi tiếng với những bài hát tiếng Pháp và cũng là một trong những gương mặt tiêu biểu trong phong trào nhạc trẻ đầu tiên ở Sài Gòn.

4.2. Tiểu sử Thanh Lan


Thanh Lan tên thật là Phạm Thái Thanh Lan sinh ngày 1-3-1948 tại thành phố Vinh, Nghệ An. Cha là Phạm Đình Vịnh, mẹ tên Thái Chi Lan, em của đạo diễn Thái Thúc Nha, chủ hãng phim Alpha.

Thanh Lan học chương trình Pháp, tên Tây là Cathérine. Tiểu học ở trường Saint Paul, trung học Marie Curie. Đậu tú tài toàn phần Pháp. Tốt nghiệp cử nhân Văn Khoa ban văn chương Anh.(1973)

4.3. Quá trình học nhạc của Thanh Lan

Từ năm 9 tuổi, Thanh Lan học đàn piano suốt 3 năm với các Sơ ở Saint Paul rồi được bà Thẩm Oánh và nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi hướng dẫn.
Đã ghi tên học các lớp dân ca Việt Nam và đàn tranh ở Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn.
Tóm lại, Thanh Lan thông thạo tiếng Pháp, lưu loát tiếng Anh, trình độ văn hóa đại học và được đào tạo về âm nhạc một cách rất có bài bản.

4.4. Sự nghiệp văn nghệ của Thanh Lan

Thanh Lan tham gia văn nghệ từ năm 9 tuổi. Bắt đầu sự nghiệp văn nghệ năm 12 tuổi trong Ban Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức, đơn ca đầu tiên trên đài phát thanh Sài Gòn với bản nhạc Vui Đời Nghệ Sĩ của Văn Phụng.
Năm 18 tuổi tham gia ban kịch Vũ Đức Duy trên đài truyền hình. Năm 20 tuổi đóng phim.

1). Sinh hoạt âm nhạc của Thanh Lan


Năm lớp 11 trung học Marie Curie, Thanh Lan gia nhập ban nhạc sinh viên Hải Âu của nhạc sĩ Lê Hựu Hà. Là ban nhạc trẻ đầu tiên có khuynh hướng Việt hóa nhạc trẻ Việt Nam. Nét đặc biệt của Thanh Lan là hát nhạc Pháp.
Thanh Lan là một hiện tượng trong giới ca nhạc Sài Gòn trước 1975. Báo chí săn đón. Hình ảnh Thanh Lan tràn ngập trên các bìa băng nhạc, bản nhạc, bày bán khắp nơi ở Sài Gòn.

Thời gian đó, Sài Gòn có hai trung tâm nhạc lớn và có uy tín là Trung Tâm Tú Quỳnh của nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương và trung tâm Shotguns của Ngọc Chánh.

Thanh Lan thường hát chung với Nhật Trường Trần Thiện Thanh, với nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, Vũ Thành An, Từ Công Phụng…

Năm 1967, Thanh Lan theo đoàn văn nghệ Nguồn Sống lưu diễn các nước từ Châu Á tới Châu Âu: Thái Lan, Lào, Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Anh Quốc và Đức.

Năm 1973, Thanh Lan cùng với Phạm Duy và Ngọc Chánh sang Nhật Bản tham dự Đại Hội Âm Nhạc Quốc Tế Yamaha Festival in Tokyo, với 100 quốc gia tham dự. Thanh Lan hát bản Tuổi Biết Buồn của Phạm Duy và Ngọc Chánh, được vào chung kết với hai ca sĩ nổi tiếng thế giới là Anne Marie David ca bản “Tu te Reconnaîtras” (Nhạc Pháp) và với nam ca sĩ nổi tiếng Hy Lạp Demi Roussos với bản Rain and Tears. Sau đó Thanh Lan ở lại Tokyo để thu hai bài Ai no hio Kesanaide và Tuổi Mộng Mơ của Phạm Duy.

2). Về kịch nghệ



Trong chương trình học của trường Marie Curie, nữ sinh có môn học về kịch nghệ
cụ thể là phân tích và phê bình nhiều vở kịch của Molière, Corneille, Racine…Đó là căn bản về kịch nghệ của Thanh Lan. Hồi còn bé Thanh Lan thủ vai em bé trong Ban Kịch Kiều Hạnh trên đài phát thanh Sài Gòn. Rồi trong ban kịch Linh Sơn diễn chung với Vũ Huyến.

Năm 1973 Thanh Lan tham gia ban kịch Vũ Đức Duy trong vở kịch Những Người Không Chịu Chết của Vũ Khắc Khoan.
Năm 2009 khi ở Hoa Kỳ, Thanh Lan thủ một vai trong vở bi trường kịch “Âm Mưu và Tình Yêu” (Intrigue and Love) của Friedrich Schiller, và vở Ngôi Nhà Không Có Đàn Ông.

3). Về điện ảnh

Từ năm 1970, Thanh Lan thủ vai chánh trong phim Tiếng Hát Học Trò của đạo diễn Thái Thúc Nha. Qua bộ phim nầy Thanh Lan được trao giải nữ diễn viên triển vọng nhất, là Giải Văn Học Nghệ Thuật của Tổng thống VNCH.
Thanh Lan cũng thủ những vai diễn trong các bộ phim Lệ Đá, Gánh Hàng Hoa, Ván Bài Lật Ngữa…

Cuối năm 1974, Thanh Lan nhận giải Diễn Viên Đẹp Nhất Miền Nam, do đạo diễn Lê Dân trao trong buổi lễ ở khách sạn Continental. Như vậy tài sắc vẹn toàn.
Tháng 3 năm 1975, Thanh Lan đóng vai chánh bên cạnh các diễn viên Nhật Yusuke Kawazu, Kenji Isomura và tài tử Đoàn Châu Mậu. Phim do hãng Amino in Tokyo thực hiện với tựa đề Number Ten Blues, về sau đổi tên lại là Goodbye Saigon.

Thanh Lan đóng 8 bộ phim, trong đó có hai bộ phim truyền hình
Tóm lại, Thanh lan là một nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn có tầm vóc quốc tế, thành công trên ba lãnh vực, ca nhạc, kịch nghệ và điện ảnh. Đóng phim, đóng kịch, làm thơ và sáng tác nhạc.
Cuộc đời cũng lắm gian truân. Vượt biên bảy lần, hai lần bị bắt, nếm mùi tù tội dưới chế độ Cộng Sản. Xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ ngày 28-12-1993.
Có thể nói “Cuộc đời lắm nổi gian truân đúng với câu hồng nhan bạc phận”

5* Lò nhạc Tùng Lâm

5.1. Liên kết Tùng Lâm, Bảo Thu và Duy Khánh


Tùng Lâm Bảo Thu Duy Khánh
Lò nhạc Tùng Lâm giới thiệu Trang Thanh Lan, Trang Kim Yến, Trang Mỹ Dung rồi Chế Linh, Giang Tử. Riêng Trang Mỹ Dung là tên do gia đình đặt ra. Quái kiệt Tùng Lâm tuy có môi trường lăng xê ca sĩ là Đại nhạc hội và Ban Tạp Lục trên đài truyền hình, nhưng vì Tùng Lâm mù tịt về việc đào tạo thanh âm nên phải liên kết với lớp nhạc Bảo Thu và Duy Khánh. Việc liên kết nầy tạo ra cơn sốt đối với các lò nhạc khác vì có đầy đủ môi trường để mầm non trẻ phát triển tài năng. Tùng Lâm có chương trình đại nhạc hội, Bảo Thu có chương trình truyền hình và lớp nhạc dạy thanh âm và nghệ thuật trình diễn. Chế Linh thuộc lò Tùng Lâm nhưng được Duy Khánh đào tạo thành danh đến ngày hôm nay.

5.2. Câu chuyện về Tùng Lâm và Chế Linh



Tác giả Nguyễn Việt kể lại. Sáng chủ nhật đại nhạc hội hôm đó tại rạp Olympic, một anh chàng da ngâm đen, tóc quăn vào tận bên trong hậu trường gặp ông bầu Tùng Lâm để xin hát. Tùng Lâm quyết liệt từ chối. Thế rồi những chủ nhật sau đó, anh ta không bỏ cuộc. Cuối cùng Tùng Lâm phải chịu thua trước cái lì lợm của anh ta. Cho lên hát thử mà không có tiền “cát sê” (Cachet-Pháp). Được giới thiệu tên Chế Linh, hát một bản của Duy Khánh.

Bài hát chấm dứt. Hoàng loạt tiếng vỗ tay nhiệt liệt không ngừng ở hàng ghế khán giả. Những tiếng hét bis, bis.
Sau đó mới biết khán giả đó là những người đồng hương họ Chế mà Chế Linh mua vé cho họ vào xem và chờ đúng cái dịp ngày hôm đó để vỗ tay, hô bis!, bis!. Tuy Chế Linh thuộc lò Tùng Lâm nhưng ông bầu đại nhạc hội nầy không biết về thanh âm nên mới liên kết với Duy Khánh, Bảo Thu để rèn luyện ca sĩ.

6* Những ca sĩ thành danh từ các phòng trà, vũ trường

6.1. Nở rộ phòng trà ca nhạc và vũ trường



Năm 1963 phòng trà ca nhạc nở rộ ở Sài Gòn. Chỉ riêng quận 1 đã có mấy chục phòng trà và vũ trường: Maxim’s, Tự Do, Queen Bee, Đêm Màu Hồng, Orchalet, Rex, Continental, Jo Marcel, Thanh Thế, Kim Sơn, Olympia, Văn Cảnh, Tháp ngà, Ritz, Baccara, Macabane, Anh Vũ, Mỹ Phụng, Bồng Lai, Melody, Đệ Nhất Khách Sạn…Khách đến đó vừa nghe nhạc vừa khiêu vũ.

6.2. Những ca sĩ nổi bật của phòng trà và vũ trường


Đó là thời điểm của Lệ Thu, Elvis Phương, Nhật Trường, Thanh Lan, Carol Kim, Ngọc Minh, Lan Ngọc, Hồng Vân, Connie Kim, Cathy Huệ, Julie Quang…

Phòng trà Anh Vũ ra đời khoảng năm 1957 ở đường Bùi Viện. Lớp ca sĩ đầu tiên được biết đến như danh ca Duy Khánh, Việt Ấn, Nhật Thiên Lan, Lệ Thanh, Thanh Thúy, Minh Hiếu. Ca sĩ Việt Ấn để lại trong lòng khán giả với bản Hận Đồ Bàn làm say mê người nghe.

Cũng tại Anh Vũ, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 lần đầu tiên đệm dương cầm cho Thanh Thúy hát bài Ướt Mi của Trịnh Công Sơn. Dấu ấn sâu đậm còn in lại trong lòng công chúng là hàng đêm Thái Thanh và ban hợp ca Thăng Long (Hoài Trung, Hoài Bắc) được đánh giá là “Tiếng hát vượt thời gian”.



Ban Hợp Ca Thăng Long và Thái Thanh
Thời đó, ca sĩ Sài Gòn được chia làm hai nhóm: một nhóm chuyên hát phòng trà và vũ trường, nhóm kia thường xuất hiện trong các đại nhạc hội hoặc trong những chương trình lưu diễn các tỉnh như: Túy Phượng, Hùng Cường&Mai Lệ Huyền, Chế Linh, Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Hồng Quế…

Trong tất cả các ca sĩ, Thái Thanh luôn được gọi là con chim đầu đàn, “Tiếng Hát Vượt Thời Gian”.

7* Những lớp nhạc đào tạo ca sĩ
7.1. Lớp nhạc Nguyễn Văn Đông


Hai đệ tử Giao Linh,Thanh Tuyền chụp chung với sư phụ Nguyễn Văn Đông

Năm 1963, Nguyễn Văn Đông là Trưởng Ban Tiếng Thời Gian của đài phát thanh Sài Gòn. Ban nhạc gồm có: Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần Văn Trạch, Minh Diệu, Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc…

Thành lập hãng dĩa Continental và Sơn Ca. Năm 1960, Nguyễn Văn Đông và người bạn tên Huỳnh Văn Tứ, một doanh nhân có tiếng ở Sài Gòn, thành lập hãng dĩa chú trọng về tân nhạc và sân khấu cải lương.

Sản xuất những album riêng cho từng cá nhân. Lệ Thu Sơn Ca 9. Thái Thanh và Ban Thăng Long với tên Sơn Ca 10. Tiếp theo là những dĩa Hà Thanh, Phương Dung, Thanh Tuyền, Giao Linh…
Nguyễn Văn Đông thu nhận Giao Linh, Thanh Tuyền và Sơn Tuyền (Em Thanh Tuyền) làm học trò. Giao Linh nổi tiếng là “Nữ Hoàng Sầu Mộng”. Thanh Tuyền là “Nữ Hoàng Bolero”.


Giao Linh Thanh Tuyền Hà Thanh Phương Dung

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sáng tác những ca khúc nổi tiếng như: Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Tình Khúc Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Lá Thư Người Lính Chiến, Phiên Gác Đêm Xuân, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giả Biệt…

Nguyễn Văn Đông mang cấp bậc đại tá phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Bị tù cải tạo 10 năm. Đủ điều kiện để được thu nhận vào chương trình HO nhưng vì sức khỏe quá yếu do nhiều chứng bịnh, nên ở lại Sài Gòn chờ…thế nhưng vẫn còn sống đến hiện nay.

7.2. Những lớp nhạc Hoàng Thi Thơ, Bảo Thu và Duy Khánh
1. Lớp nhạc Hoàng Thi Thơ.



Ca sĩ Họa Mi

Hoàng Thi Thơ đào tạo ba ca sĩ nổi tiếng là Sơn Ca, Họa Mi và Bùi Thiện.

Sáng tác trên 500 bản nhạc về quê hương, dân ca nổi tiếng nhất là những bản: Chuyện Tình La Lan, Nổi Buồn Châu Pha, Chuyện Tình Người Trinh Nữ Tên Thi, Rước Tình Về Quê Hương, Tà Áo Cưới, Đường Xưa Lối Cũ, Trăng Rụng Xuống Cầu, Gạo Trắng Trăng Thanh, Đám Cưới Trên Đường Quê, Duyên Quê, Ta Với Mình…
Năm 1957, Hoàng Thi Thơ tổ chức nhiều đại nhạc hội ở rạp Thống Nhất. Năm 1961, thành lập Đoàn Văn Nghệ Việt Nam với hơn 100 nghệ sĩ có tên tuổi đi lưu diễn qua nhiều quốc gia Châu Á và nhiều thành phố lớn như: Vạn Tượng, Hồng Kong, Đài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London, và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Năm 1967, thành lập Đoàn Văn Nghệ Maxim gồm 70 diễn viên ca-vũ-nhạc-kịch tại nhà hàng Maxim’s.

2. Lớp nhạc Duy Khánh.

Duy Khánh tên thật là Nguyễn Văn Diệp sinh năm 1936 tại Quảng Trị. Là ca sĩ có giọng ca đặc biệt. Khi ở chung cư đường Trần Hưng Đạo, Duy Khánh mở lớp dạy thanh nhạc cho học trò 12, 13 tuổi.

Duy Khánh hướng dẫn Chế Linh, Lâm Gia Minh, Trường Vũ trở thành những ca sĩ chuyên nghiệp.
Bản nhạc tiêu biểu của Duy Khánh là những bài: Xuân Nầy Con Không Về, Ai Ra Xứ Huế, Xin Anh Giữ Trọn Tình Quê, và 40 bài hát: Thương Về Miền Trung, Bao Giờ Em Quên, Biết Trả Lời Sao, Đêm Bơ Vơ, Lối Về Đất Mẹ, Sao Không Thấy Anh Về, Sầu Cố Đô, Thư Về Em Gái Thành Đô…

Duy Khánh mất ngày 12-2-2003 tại Quận Cam, Cali.

3. Lớp nhạc Bảo Thu

Bảo Thu tên thật là Nguyễn Trung Khuyến, sinh ngày 19-12-1944 tại Sài Gòn. Hai học trò nổi bật nhất là Thanh Tâm (vợ ông) và Thanh Mai. Ông sáng tác trên 50 bản nhạc như: Giọng Ca Dĩ Vãng, Cho Tôi Được Một Lần, Đừng Hỏi Vì Sao Tôi Buồn, Nếu Xuân Nầy Vắng Anh, Hoa Tình Thương, Em Đâu Rồi…

Bảo Thu còn là ảo thuật gia danh hiệu Nguyễn Khuyến, có bằng Tiến Sĩ Ảo Thuật do Hiệp Hội Ảo Thuật Quốc Tế trao tặng. Màn đặc biệt là hóa con thỏ thành chim bồ câu…

8* Những biệt danh của các ca sĩ

“Nữ Hoàng Sầu Mộng” với Giao Linh. “Nữ Hoàng Bolero” Thanh Tuyền. “Tiếng Hát Khói Sương”, “Tiếng Hát Liêu Trai”, “Tiếng Hát Lúc Không Giờ” của Thanh Thúy.

“Giọng Ca Tủ Lạnh” của Mai Lệ Huyền. Còn có biệt danh là “Cúc Lủi” vì khi hát cứ lủi ra phía trước. Tên thật của Mai Lệ Huyền là Nguyễn Thu Cúc, sinh năm 1946 tại Lào. Cô mang hai dòng máu Việt Lào. Lớn lên ở Bình Long.



Với giọng khàn khàn nhún nhẩy trong các bản nhạc Twist, Agogo gây không khí náo nhiệt mỗi khi cặp Hùng Cường&Mai Lệ Huyền đứng trên sân khấu.

Nhóm nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân (Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân) sáng tác một loạt các bản nhạc kích động cho cặp đôi nầy. Các bản như: Gặp Nhau Trên Phố, Vòng Hoa Yêu Thương, Hai Trái Tim Vàng, Mắt Xanh Con Gái, Làm Quen Với Lính.

Các nhạc sĩ khác gồm Khánh Băng, Y Vân, Hoàng Thi Thơ, Tuấn Lê, Giao Tiên,
cũng viết riêng cho Mai Lệ Huyền&Hùng Cường những ca khúc: Say, Lính Dù, Người Lính Chung Tình, Ghét Anh Lắm, Thiên Duyên Tiền Định, Túp Lều Lý Tưởng, Xây Nhà Bên Suối, Hờn Anh Giận Em

9* Ca sĩ Thanh Thúy


9.1. Vài nét tổng quát về ca sĩ Thanh Thúy

Tên đầy đủ là Nguyễn Thị Thanh Thúy, sanh ngày 2-12-1943 tại Huế, trong một gia đình 5 chị em. Năm 1964 Thanh Thúy kết hôn với tài tử Ôn Văn Tài, (Sau mang lon Đại tá Không Quân VNCH).
Thanh Thúy là một trong 10 ca sĩ có ảnh hưởng lớn trong nền tân nhạc Việt Nam trước năm 1975. Được mệnh danh là Nữ Hoàng trong thể điệu Bolero và Rumba-Bolero.

9.2. Sinh hoạt ca hát của Thanh Thúy

Tên tuổi của Thanh Thúy gắn liền với những ca khúc mà nhạc sĩ Trúc Phương viết riêng cho chị hát. Đồng thời cũng gắn liền với những nhạc khúc tiền chiến, nổi bật nhất là bản nhạc bất hủ Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong.
Thanh Thúy được các nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn và diễn viên điện ảnh nổi tiếng hết lòng ca ngợi bằng những mỹ từ như “Tiếng Hát Khói Sương”, “Tiếng Hát Liêu Trai”.

Năm 1961. Đạo diễn Nguyễn Long thực hiện cuốn phim “Thúy Đã Đi Rồi” nói về Thanh Thúy. Ngoài cuốn phim nầy, tên tuổi Thanh Thúy còn xuất hiện trên sân khấu kịch và truyền hình.
Năm 1962. Thanh Thúy được bầu chọn danh hiệu “Hoa Hậu Nghệ Sĩ”.
Năm 1964. Bản nhạc Chuyến Tàu Hoàng Hôn đã khắc sâu tên tuổi và tài nghệ của chị trong lòng khách mộ điệu.
Năm 1970. Đoạt giải Kim Khánh của nhật báo Trắng Đen dành cho nữ ca sĩ ăn khách nhất với nhạc phẩm Tình Đời (Duyên Kiếp Cầm Ca) của hai nhạc sĩ Minh Kỳ và Vũ Chương.
Năm 1972. Đoạt hai giải Kim Khánh dành cho nữ ca sĩ được ái mộ nhất trong năm và show truyền hình được yêu thích nhất của năm 1972 do chị làm trưởng ban.

9.3. Thanh Thúy và những ca khúc u hoài của cuộc đời

Nhiều ca khúc nói lên nỗi niềm cay đắng, nghiệt ngã về tâm trạng thương cảm, ngang trái trong cuộc đời và cuộc tình, được dàn trải qua tiếng hát Thanh Thúy tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng người thưởng ngoạn.

Từ nhạc phẩm tiền chiến như Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong, Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương, Tan Tác của Tu Mi, Chuyển Bến của Đoàn Chuẩn, Biệt Ly của Dzoãn Mẫn, Nhắn Gió Chiều của Nguyễn Thiện Tơ, Tiếng Còi Trong Sương Đêm của Lê Trực, Tiếng Đàn Tôi và Thuyền Viễn Xứ của Phạm Duy…cho đến Ngăn Cách, Người Em Sầu Mộng của Y Vân, Lạnh Lùng của Đinh Việt Lang sang Kiếp Cầm Ca của Huỳnh Anh, Tiếng Ve Sầu của Lam Phương, đến Mộng Chiều của Khánh Băng, Nhạt Nắng của Xuân Lôi, Đường Nào Lên Thiên Thai cửa Hoàng Nguyên… và nhiều ca khúc của Trúc Phương phù hợp với tiếng hát Thanh Thúy đã gắn liền giọng ca và dòng nhạc trong giới yêu nhạc.

9.4. Tiếng hát Thanh Thúy qua ngòi bút của các văn, thi sĩ.

Nhà thơ Nguyên Sa viết: "Thanh Thúy là nữ ca sĩ được ngợi ca nhiều nhất trong văn, trong thơ. Thi sĩ Hoàng Trúc Ly, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Viên Linh, nhà văn Tuấn Huy cũng có những bài ca ngợi Thanh Thúy bởi vì Thanh Thúy chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, trong đó có những nhà văn, nhà thơ. Tiếng hát Thanh Thúy đã từng được nhà văn Mai Thảo mệnh danh là "Tiếng hát lúc 0 giờ", giáo sư Nguyễn Văn Trung thì gọi chị là "Tiếng hát liêu trai", nhạc sĩ Tuấn Huy gọi là "Tiếng sầu ru khuya".

Nhiều nhạc sĩ, thi sĩ sáng tác ca khúc, bài thơ để dành riêng cho Thanh Thúy hát. Trịnh Công Sơn viết bản nhạc đầu tay “Ướt mi” và "Thương một người", Tôn Thất Lập sáng tác "Tiếng hát về khuya", Anh Bằng viết ca khúc "Tiếng ca u hoài" để chị hát. Y Vân với "Thúy đã đi rồi" trong phim cùng tên. Và rất nhiều sáng tác của Trúc Phương đều lấy cảm hứng từ tình cảm của ông dành cho Thanh Thúy.

Nhà thơ Hoàng Trúc Ly đã viết tám câu thơ lục bát nổi tiếng bày tỏ lòng giao cảm với tiếng hát Thanh Thúy, tựa đề "Sầu ca sĩ"...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét