Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021

Ngày tôi xa quê hương - Quách Như Nguyệt


 Hôm đó là ngày 29 tháng Tư, năm 1975.  Khoảng 9 giờ sáng, tôi đang nằm chán chường đọc truyện thì nghe có tiếng thằng nhóc ở nhà bên cạnh la lên to thật là to, to đến độ ở bên nhà tôi còn nghe được: “Sắp đi Mỹyyyyy….!  Sắp đi Mỹ rồiiiiiii…!” Nghe thấy thế, tôi bèn chạy xuống nhà nói với mẹ tôi:  “Mẹ ơi, con thấy thằng Hòa con chú thím Bẩy vừa la lên là sắp đi Mỹ đó. Cả nhà bên ấy đang xôn xao. Mẹ qua nhà chú Bẩy hỏi thăm thử đi mẹ”.  Mẹ tôi vội vàng chạy qua bên nhà hàng xóm. Chỉ khoảng vài phút sau, mẹ tôi hối hả chạy về nhà, bảo cả nhà phải sửa soạn để lên đường ngay lập tức! 

<!>

Biến cố tháng Tư xẩy ra quá nhanh.  Trước đó hơn cả tháng, mẹ tôi đã tìm đủ mọi cách, dò hỏi tìm đường đi.  Nhà tôi là dân Bắc Kỳ mà, đã phải chạy trốn Cộng Sản từ năm 1954, bố mẹ tôi đã từng nghe, từng nhìn thấy cảnh đấu tố rùng rợn đến như thế nào rồi nên rất hiểu, rất sợ phải ở lại Việt Nam nếu Việt Nam mình không còn tự do dân chủ. Ông bà nhất định phải ra đi bằng mọi giá, quyết chí sẽ đi thêm một lần nữa, tị nạn Cộng Sản thêm một lần nữa, cho dù kỳ này, chuyến đi này có nghĩa là phải rời bỏ, bỏ lại tất cả nhà cửa, tài sản, phải lìa xa quê hương yêu dấu, không biết đến bao giờ mới có dịp trở về…

Thời điểm đó, may mắn có bà chị thứ Năm của tôi đang du học ở bên Úc nên bố mẹ tôi yên trí lắm!  Cùng lắm thì xin đi tị nạn ở Úc. Nước Úc cũng là một đất nước thuộc về khối tự do mà, ở bất cứ nơi nào cũng vẫn hơn là ở với tụi Việt Cộng ác độc, độc tài, độc đoán, gian manh. 

Mẹ lo cho bố tôi và tôi đi trước. Có bà bạn của mẹ sẽ đi Mỹ, mẹ hỏi tôi có chịu làm con nuôi của bạn mẹ, để qua Mỹ trước một mình không? Mặc dù sợ lắm, không biết tương lai sẽ ra sao nhưng tôi cũng chịu (đúng là điếc không sợ súng) vì tôi không muốn bị ở lại với tụi VC!   Có nhiều tin đồn khủng khiếp là Việt Cộng sẽ bắt nhốt mấy cô nữ sinh lại, cô nào để móng tay dài, chúng sẽ rút móng tay!  Rồi người ta còn đồn đãi là học trò, nữ sinh viên sẽ bị ép lấy mấy anh cán ngố... vân vân và vân vân…  Tôi nghe mọi người xầm xì, mặc dù bán tín bán nghi, nghĩ rằng hầu hết những tin đó chỉ là tin đồn, tin vịt; nhưng nếu nhỡ đó là sự thật thì sao?  Tụi Việt Cộng mà, gian ác lắm mà, chuyện gì mà chúng chả dám làm?  Có nhiều tin đồn khiếp đảm quá làm cho dân chúng rất hoang mang, lo sợ!

Lý do tôi chịu đi trước một mình vì tôi nghĩ đằng nào tôi cũng sẽ được đi du học nên đây cũng là dịp tôi đi sớm để học đại học ở nước ngoài.  Mẹ tôi đã và luôn dự định nếu tôi không xin được học bổng, cho dù bất cứ giá nào; mẹ cũng sẽ lo cho tôi đi du học tự túc khi tôi học xong lớp 12 trong vài năm nữa.

Tôi vốn được cưng chìu, lại lười biếng, chả phải làm việc nhà gì cả, nên tôi biết, cho dù mơ hồ, rằng nếu bị đẩy vào một đời sống hoàn toàn mới lạ, xa nhà, xa quê hương, xa bạn bè, thân quyến… không có sự bảo bọc, thương yêu của bố mẹ thì tôi không biết mình sẽ phải xoay sở ra sao?  Cuộc sống mới của tôi nơi xứ người chắc chắn sẽ đầy khó khăn, cực khổ!..... 

May quá!  Chuyện đã không thành! Và mẹ tôi lại tiếp tục tháo vát, đảm đang; bà nhanh nhẹn đi tìm manh mối, tìm đủ mọi phương cách khác. Mẹ và anh tôi nghe nói gì cũng đi tìm đến, tìm đến cả ông mục sư người Mỹ quen với bạn của mẹ để xem có nhờ vả được gì không? Tôi thấy những người làm sở Mỹ trong xóm tôi, từ từ ra đi bằng máy bay, ngày nào cũng có người đi. Tôi nghe thấy tiếng đạn pháo kích ầm ỉ mỗi ngày! 

Lúc đó, hai ông anh tôi từ chiến trường, tận miền Trung xa lắc đã may mắn chạy được về nhà. Lúc đó, bạn trai của bà chị kế tôi, anh S. đang học năm chót Y khoa (Quân Y), gia đình anh ở Châu Đốc, cũng đến tạm trú ở nhà tôi. Mọi người chả biết làm gì khác hơn là chờ đợi. Trước đó khoảng gần một tuần, cả nhà tôi đã dắt díu nhau đến chỗ hẹn, nhà của một người bạn mẹ, để cùng nhau đến phi trường đi bằng lối máy bay, nhưng lúc đó phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích nặng nề, tòa Đại sứ Mỹ cũng chả hơn gì, chẳng có một chút xíu an ninh gì cả.  Mọi sự, tất cả đều đã hổn loạn, chao đảo, dân Sài Gòn hoảng hốt!  Ngồi chờ ở nhà bạn mẹ tôi lâu thật lâu! Rốt cuộc rồi mọi người cũng phải quay về.  

Cho nên ngay buổi sáng ngày hôm đó, ngày 29 tháng Tư năm 1975, nghe mẹ tôi nói như thế, mọi người đều mừng quá là mừng, vội vàng thay quần áo, vì đã có sẵn túi sách, vali từ mấy ngày hôm trước, nên chỉ trong vòng tích tắc là tất cả đã sẵn sàng để đi ngay. Khi tôi đi ngang qua nhà P, bạn học Trưng Vương, nó thấy tôi và gia đình, người nào cũng tay xách nách mang, vội hỏi: 
“Mày đi đâu, cả nhà mày đi đâu vậy?” 

Tôi bảo nó:
“Nghe nói có tầu ở bến tầu, nhà mày cũng đi luôn đi, đi mau, đi liền ngay đi … nếu không tầu sẽ rời bến đó”. 

Đến bến tầu, có hàng rào kẽm gai ngăn chận lại; họ không cho vô. Ông anh cả tôi bèn lấy vòng vàng nhét vào tay mấy người lính để họ mở rào, nữ trang thì họ lấy nhưng rồi họ cũng nhất định không cho phép đi qua. May quá bố tôi làm quan thuế, công chức ở kho 11; có người nhận ra bố tôi nên họ mới nói với nhau để cho bố tôi và cả nhà đi qua khỏi cổng rào.  Chị dâu tôi, vợ của người anh thứ ba, bế theo đứa con gái gần 1 tuổi, con bé cháu đầu tiên của gia đình, ra tận bến tầu để tiễn cả nhà. Chị đứng đó đến giờ phút cuối cùng nhưng không đi vì chị đã quyết định ở lại.  Chị nói với mẹ tôi: 
“Nếu anh Tiến còn sống, con chắn chắn sẽ đi theo bố mẹ, theo gia đình chồng nhưng anh Tiến đã mất rồi, mẹ cho con xin phép được ở lại với ba má, gia đình con”.

(đoạn văn tiếp theo, cho phép N …lạc đề nhe)  

Chị dâu tôi đẹp lắm! Chị hát hay nên rất... hay hát, hihi... Tết đầu tiên sau khi lấy anh tôi, chị đã hát cho tôi và cô em út nghe nhiều bản nhạc Xuân, trong đó có bài Câu Chuyện Đầu Năm: “Trên đường đi lễ Xuân đầu năm, qua một năm ruột rối tơ tằm...”  

Câu chuyện đầu năm

Lần đầu tiên có người hát riêng cho hai đứa tôi nghe, tụi tôi rất thích. Tôi thích và thương chị vì tuy lớn tuổi hơn nhưng chị rất hợp với tôi, cưng tôi lắm!  Tên của chị là Kim Thạnh, nhưng ở nhà gọi chị là chị Bé.  Chị Bé nấu ăn rất giỏi!  Tuy có người làm, không phải nấu nướng nhưng tôi cũng đã nhờ chị Bé chỉ cho tôi nấu chè, làm bánh, may quần áo. Chị Bé người Nam, tính tình thật thà, hòa đồng, dễ chịu, vui vẻ, dễ thương!  Chị hay cười, nụ cười tươi tắn với 1 cái răng khểnh rất có duyên.  Đàn bà mà đẹp phần đông bị lận đận, long đong, khổ não về đường tình ái. Chị dâu tôi trái lại, được chồng cưng yêu, mối tình của chị với anh tôi đẹp như mơ. Anh Tiến tôi và chị đang sống với nhau quá chừng hạnh phúc nhưng… cái số của chị đúng là số hồng nhan bạc phận mà.  Khi chị đang mang thai khoảng 6,7 tháng thì anh tôi tử trận. Thấy chị vác cái bụng bầu thật lớn, lết về nhà báo tin chồng chết. Thấy chị khóc mắt đỏ hoe, sưng vù cả mắt, xỉu lên xỉu xuống, gào khóc khi đi theo sau quan tài, ai mà không xót xa, mũi lòng thương chị và rơi lệ chứ?!  

Tội nghiệp chị, lúc đó chị mới có hai chục tuổi đầu. Chị ở lại Việt Nam là một quyết định quá sai lầm vì chị là người Nam nên ngây thơ chưa biết, không biết, không hiểu rõ bọn Việt Cộng nham hiểm, dối trá đến như thế nào?  Mẹ của chị lại là dân nằm vùng, nên chả trách chị đã bị lầm to! 

Khoảng hơn 2 năm sau, sau khi Sài Gòn thất thủ, chị Bé “phải lòng” một cán bộ Việt Cộng cao cấp.  Hai người yêu nhau tha thiết nhưng “đảng” không hề muốn vì anh cán bộ này không được phép, không thể yêu một người đàn bà đã từng có chồng là “ngụy”. “Đảng và nhà nước” sợ bị mang tiếng.  Cấp trên cấm cản nhưng anh cán bộ này vì thương yêu chị Bé thật lòng, đã cả gan dám cải lệnh cấp trên.  Thế là chị Bé, người tình VC, cùng một người bạn sau khi đi chơi về đến nhà, mở cửa nhà ra thì bị lựu đạn do tụi VC gài, nổ tung!  Chị Bé và người tình chết ngay tại chỗ.  Người bạn đi theo về nhà chơiđúng là số xui, cũng bị chết oan! 

Cháu gái của tôilúc đó mới có 3 tuổi mà mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở với ông bà ngoại nó. Bà ngoại cháu chắc về sau này hối hận ghê lắm! Ân hận vì đã từng là VC nằm vùng, ân hận vì đã không bỏ chạy, chạy khỏi, chạy trốn cái chính thể độc tài, tàn ác, tham lam vô độ, chỉ biết vơ vét, không hề biết thương dân.  Không những không bao giờ quan tâm đến dân chúng, tụi cầm đầu, bọn “lãnh tụ” còn đì dân, muốn cho dân càng ngu càng tốt để dễ bề cai trị. Ông bà sui của bố mẹ tôicũng là ông bà ngoại của con bé cháu độc nhất của gia đình tôilúc đó đã không hề biết đến chính sách “vắt chanh bỏ vỏ” của tụi Việt Cộng, đã thật sự bị lầm đường lạc lối khi đi đặt niềm tin, lòng yêu nước không đúng chỗ. 

Sau khi lấy được miền Nam, bọn đầu đảng đã làm cho dân Việt Nam lầm than, đói khổ; đã đưa đất nước tôi đi ngược lại, trở lùi lại cả thế kỷ so với thế giới văn minh, trở thành một trong những quốc gia thấp kém, nghèo nàn, đói khổ nhất trên thế giới.  Các quân nhân, công chức miền Nam Việt Nam bị bắt giết, tù đầy.  Biết bao nhiêu người đã liều chết ra đi, đàn bà bị tụi hải tặc hãm hiếp, đàn ông bị đánh đập tàn nhẫn, vùi thây nơi biển cả... 

Mẹ tôi thương nhớ đứa cháu nội độc nhất của bà, cứ tiếc nuối mãi.  Mẹ nói hoài:
“Biết thế cứ dằn lấy nó, bế nó theo nhỉ.... chắc mẹ nó cũng cho nó đi mà!”

Cho dù mẹ và chị em chúng tôi thường gửi tiền về khá nhiều, rất đều cho cháu nhưng mẹ tôi vẫn khắc khoải hoài, chẳng thể nào yên tâm, cứ thấy tội nghiệp, thấy thương xót đứa cháu nội còn kẹt lại. 

Gia đình tôi may mắn, đúng là trời thương, đi được hết cả nhà: bố mẹ tôi, vợ chồng ông anh cả, hai ông anh độc thân, chị kế tôi và bạn trai, tôi và nhỏ út. Tất cả mười người.  Chúng tôi đi bằng một chiếc tầu lớn của tư nhân có tên là tầu Anh Tuấn. Trước đó vài ngày, chú của mẹ tôi (ông làm việc về hàng hải) có đến nhà trả lời cho mẹ tôi biết là họ không nhận thêm người nữa, cho dù mẹ tôi đã chịu trả 15 lạng vàng cho mỗi đầu người -theo ý họ- để được đi.  Thất vọng quá nhưng mẹ tôi cũng cứ sang tên nhà lại cho ông.  Không ngờ sáng ngày 29 tây, ngày cuối cùng của cuộc nội chiến thảm khốc tương tàn; chiếc tầu mà gia đình chúng tôi cùng leo lên lại là tầu Anh Tuấn!

Người ta leo lên tầu nhiều chật nứt, đâu đâu cũng thấy người! Người nằm ngồi la liệt. Gia đình chúng tôi ngồi gần ngay bếp, chỗ có cầu thang đi xuống hầm tầu, tương đối rộng rãi, đêm nằm ngủ thoải mái, có thể dạng chân dạng tay, lăn qua lăn lại, chứ không phải nằm chật chội sát cạnh bên nhau giống như cá bị xếp trong cá hộp.

Trên đường đi có tiếng súng bắn cheo chéo, nổ đì đùng, nghe rất gần, veo véo bên tay, chát chúa làm cho mọi người khiếp đảm. Mọi người đều nghĩ họ bắn theo tầu của mình nên lo sợ lắm!  Khi đi ngang qua Vũng Tầu, tôi thấy lòng mình bâng khuâng, nơi tôi sinh ra đây mà...  Khi tôi gần 2 tuổi thì gia đình tôi dọn vào SàiGòn, ấy thế mà tôi chưa bao giờ được trở về thăm, dù chỉ một lần (thỉnh thoảng mẹ tôi có đi Vũng Tầu, sao tôi không đòi/xin mẹ tôi cho tôi đi theo nhỉ?).  Tôi chẳng thể nào hình dung ra ni Vũng Tầu nhìn ra làm sao, bãi biển có đẹp không, tôi sinh ra ở bãi trước hay bãi sau (tôi không hỏi mẹ tôi) và đã thầm nghĩ trong đầu: 
Vĩnh biệt Vũng Tầu, vĩnh biệt Việt Nam, không biết bao giờ mình mới có dịp trở về?  Không biết trong cuộc đời còn lại của mình, mình có được thấy, được về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình không?  Chào quê hương yêu dấu!”  

Chỉ sau vài tiếng lên tầu thôi, thì tôi bị có tháng.  Rầu ơi là rầu!  Tôi chẳng phòng hờ, chả mang theo gì cả, thấy xấu hổ quá, sợ mọi người nhìn thấy nên tôi cứ ngồi lì, ngồi yên tại chỗ, chả dám đứng dậy, chả dám đi đâu. Thời gian trôi qua thật não nề, chậm chạp. Cũng may tôi không bị ra nhiều, sau đó còn xin xuống được dưới hầm tầu để tắm rửa và thay quần áo. Lúc đó nước ngọt rất quí nên tôi chỉ được tắm bằng nước biển, tắm xong, cả người tôi cứ dính dáp, rin rít thế nào ấy, rất là khó chịu. Làm đàn bà, con gái rất là khổ quí vị ơi, tôi “công nương” quen rồi nên với tôi, ngay ngày đầu tiên rời khỏi quê hương, tôi đã thấy khổ, khổ quá chừng

Các bạn biết sao không?  Cho dù lương thực, nước uống họ dự trữ rất nhiều nhưng vì có nhiều người leo lên tầu quá nên chủ tầu và ban quản lý rất dè xẻn khi phát nước, phát cơm.  Gia đình tôi may mắn lắm, vì ngồi ngay bếp nên khi được chia phần ăn, nhà tôi được chia trước hết, anh đầu bếp lại có cảm tình với gia đình tôi; anh luôn luôn đưa phần ăn nhiều nhất cho chúng tôi. Chắc có lẽ bị đói nên chưa bao giờ tôi thấy mình ăn ngon miệng đến như thế! Cơm trắng và cá khô thôi nhưng sao mà ngon quá chừng ngon! Tôi còn đòi anh cho ăn cơm cháy nữa, cơm cháy giòn rụm, thơm phưng phức ăn với cá khô chiên mằn mặn giòn tanCòn có lạp xưởng và ruốc thay đổi cho mỗi buổi nữa… Đang đói bụng, nên cho dù ăn cơm khô khan, không rau quả gì cả, tôi vẫn thấy quá ngon!  

Đêm hôm đó, mọi người nghe radio thấy Trịnh Công Sơn hát bài “Nối vòng tay lớn”. Mất! Mất rồi! Mất nước thật rồi! Hỡi ơi… Tôi thấy buồn ơi là buồn! Một nỗi buồn da diết! Buồn phải xa quê hương yêu dấuBuồn quá đỗi! 

Mặc dù nhớ trường, nhớ bạn; mặc dù là thân phận người tị nạn long đong... đêm thứ hai trên tầu; tôi cũng vẫn mơ mộng như thường. Đêm tối mịt tối mùng nên trăng sao sáng tỏ, lung linh và lung linh!  Nước biển nhấp nhô, lấp lánh ánh trăng vàng. Tôi ngồi ngắm trăng ngây ngất!  Ngồi yên lặng một mình, tôi nghĩ đến quê hương, nghĩ đến bạn bè, nghĩ đến họ hàng thân thuộc còn kẹt lại và tôi rơi nước mắt. Nước mắt chẩy ra ràn rụa. Ôi, quê hương ơi, quê hương tôi sao khổ đau, quằn quại quá!  Những người còn ở lại rồi sẽ ra sao?. Tôi cảm thấy rất thương tâm! 

Trưa hôm sau, ngày thứ ba lênh đênh trên biển, tầu đang đi êm ru thì bỗng dưng có bão. Đúng là giông tố bão bùng! Mưa ầm ầm, mưa to gió lớn; gió rú, rít lên bay phần phật mấy tấm phông che bằng ny lông.  Mấy người đàn ông phải hùa lại ôm, phải giữ lại phông che vì gió mạnh làm bay mất đi một số. Tầu Anh Tuấn là một chiếc tầu thương mại khá lớn, thế mà nó như một chiếc lá bé nhỏ, bồng bềnh, chông chênh trên mặt biển. Đại dương mênh mông, bao la quá! Trời bỗng tối xầm, đen kịt lại, âm u. Chiếc tầu bị nhào lên nhào xuống, lắc lư thật mạnh như sắp bị úp ngược lại. Thật hãi hùng! Mưa gió lạnh lùng, lạnh đến buốt xương! Lần đầu tiên tôi mới biết run lập cập là run như thế nào? Hai hàm răng đánh vào nhau nghe lập cà lập cập đó mà! Tất cả mọi người đều muốn chạy xuống hầm tầu cho đỡ ướt. 

Tôi ngồi ôm gối co ro, nhắm nghiền mắt lại vì sợ hãi; nhiều tiếng la hét hốt hoảng ở chung quanh, có nhiều người dẫm lên người tôi mà đi, họ dành nhau chạy xuống hầm tầu. Tôi nghe tiếng năn nỉ, tiếng khẩn khoản cầu Trời, khấn Phật, van xin Chúa... Tôi cũng nghe thấy mình nói thầm, tụng kinh cầu xin đức Phật cứu vớt chúng tôi, xin Phật Bà QuanThế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn... giúp chúng tôi vượt qua khỏi cơn khổ nạn nầy. Con tầu quá bé nhỏ trong gió bão! Sóng gầm lên, sóng nổi trận lôi đình, giận dữ, nhồi thật mạnh như muốn hất tất cả mọi người xuống lòng đại dương! Tiếng gào khóc chung quanh làm cho thần kinh tôi căng thẳng, nhức óc, mệt lã cả người....  

Bây giờ nhớ đến cái cảnh tượng ngày hôm đó, tôi lại thấy buồn cười, bình thường thì không thấy ai nhớ đến Phật, đến Chúa cả, đến khi xẩy ra chuyện thì mọi người mới kêu xin, mới nhớ tới, mới van nài...  có quá trễ lắm không?! 

Rồi thì cũng có người đỡ tôi xuống dưới, không còn bị mưa ướt và gió lạnh nữa; nhưng khi ở hầm tầu, không khí không thoáng như ở phía trên, tầu lại lắc lư, nhồi rất mạnh, trồi lên rớt xuống kinh khiếp quá! Trong suốt cuộc đời tôi, chưa bao giờ tôi bị nôn mữa một cách dễ sợ, kinh hoàng như thế, đó là lần đầu tiên và mong rằng cũng là lần cuối cùng… vì cái cảm giác đó ghê rợn lắm các bạn ơi! Khi đó tôi mới hiểu ra khi người ta nói ói đến mật xanh, mật vàng là !!!  Có nghĩa là bao tử mình đã không còn gì để ói, đắng nghét những chất nước mầu vàng vàng, xanh xanh vẫn cứ ọe ra (xin lỗi đã tả chân, hổng được thanh tao cho lắm nhé). Tôi thấy đau quặn bụng!  Cổ họng bỏng rát, đắng chátNước mắt nước mũi tràn ra, nhức đầu, chóng mặt quay cuồng đến độ gần ngất xỉu! 

Cơn bão, dù có lớn cách mấy, rồi cũng qua đi... Người nào người nấy đều như cái mền rách, mặt trắng bệt, xanh xao... ngoại trừ một số rất ít người không bị say sóng và thật là khỏe mạnh, còn lại thì ngất ngư, mệt đờ người, nhừ tử! Cả người tôi ướt sũng,  tôi phải lò dò lấy bộ quần áo khác để thay.

Ngày hôm sau, tôi thấy người ta cột quần hoặc áo của họ vào 1 dây thừng bằng ny lông, xong thả xuống biển để...giặt.  Tôi cũng bắt chước làm theo.  Lúc đó tôi đã khá hơn, chai lì hơn nên không còn biết mắc cỡ nữa (nói vậy chứ cũng còn chút chút, hihi....).  Tôi đã ráng làm mặt tỉnh, cột cái quần lót dính đầy vết dơ thả xuống dưới biển, may quá cũng chẳng có ai thèm để ý.  Tầu chạy bong bong kéo theo sợi dây thừng nhỏ, lần đầu tiên tôi cột không chặt nên bị mất toi cái quần xì líp! Sau đócó kinh nghiệm hơn, tôi cột thật chặt!  Nước biển quả thật là mầu nhiệm, giúp khử trùng và làm sạch sẽ một số quần áo của tôi. 

Tôi gặp P -nhỏ bạn Trưng Vương-  trên tầu, thì ra nhờ tôi mà gia đình nó cũng đi được. Gia đình của nó mang theo rất nhiều thức ăn. Lúc đi, mẹ tôi cũng quơ theo vài ổ bánh mì, giò chả... mang theo được cả cái nón lá để đựng thức ăn nữa cơ đấy... nhưng thức ăn đã hết ngay trong ngày thứ hai; vả lại nếu còn, bão tố cũng làm bánh mì bị ướt nhẹp hết, không ăn được. Mẹ tôi muốn mua sữa cho bố tôi uống, mua mì gói cho mấy đứa con ăn thêm nên tôi nói lại với P.  Các bạn biết sao không? Mẹ của K đòi bán $10, $15 đô cho mỗi thứ (đúng là giá quá cắt cổ thời bấy giờ). Biết là đắt, nhưng vì cần thiết nên mẹ tôi cũng phải mua.

về sau trở thành ca sĩ nổi tiếng. P được học piano trường Quốc Gia Âm Nhạc. Ở trong trường, chẳng bao giờ nó được hát, ấy thế mà thời thế thay đổi, khi qua Texas, nó học hát và gia đình của nó lập thành ban nhạc vang danh một thời. Năm 1978, 79 (lâu quá rồi, tôi không nhớ chính xác)gia đình P dọn qua California. Có một dạo, ban nhạc của gia đình tổ chức những buổi dạ vũ, lôi cuốn được đông khách hơn cả ban The Dreamers nữa đó. Sau khi lấy chồng, P mở vũ trường, kiếm được bộn tiền, trở nên giầu có (lại lạc đề, hihihiiii).

Hảo, em gái tôi, tình nguyện làm người đi phát nước. Nó và một anh nữa, người cầm thùng nước, người mang theo một cái ấm to và một cái ly nhỏ. Những người tị nạn có đồ chứa nước, Hảo đổ nước từ ấm to vào trong đó; người nào không có, Hảo rót nước vào cái ly nhỏ cho uống tạm.  Nghe Hảo kể có một số người vì khát nước quá, đã phải uống cả nước tiểu của mình.  Tầu Anh Tuấn lớn lắm quí vị à, Hảo nó đi phát nước hết một vòng cũng mất hơn cả tiếng rưởi đồng hồ. Lúc đó, khát nước, nắng lại chói chan đến hoa cả mắt, cô bé đi phát nước nhìn chắc giống như một nàng tiên, một “angel” tuyệt diệu từ trên trời ban xuống, ha các bạn?   Bởi thế có nhiều người biết và nhớ mặt em tôi lắm. Khi ra đến trại tị nạn, có nhiều người đã nhận ra nó, tay bắt mặt mừng với Hảo

*Tầu đi lang thang trên biển khoảng 5 ngày thì gặp tầu hải quân của Mỹ. Mọi người từ từ leo thang lên tầu lớn. Lúc đó, vì họ không cần dùng đến nước nữa nên tôi được cho xuống tầng dưới tắm bằng nước ngọt. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng đến như thế: thoải mái, dễ chịu, quá ư là dễ chịu, thoáng mát, sảng khoái quá chừng đi. 

Khi qua bên tầu Mỹ, có một người đàn ông duy nhất trên tầu Anh Tuấn (thì ra ông lại là bố của một người bạn tôi, bạn học trên đại học sau này) đã từ trần và họ phải thủy táng ông.  

Buổi tối đầu tiên ở trên tầu Mỹ, tôi ngồi nghe ông anh trai và ông anh rể tương lai nói chuyện với mấy người lính Mỹ, thấy thích lắm! Tuy hiểu hết tiếng Anh nhưng tôi rất nhát, chỉ cười cười ngồi nghe ké chứ chả dám nói năng chi. Tối hôm đó, tôi nghe từ radio của một người lính Mỹ phát ra bản nhạc “You are everything”.  Tuy mới nghe lần đầu, tôi đã thấy thích ngay.  

You are everything

Nẩy giờ N ngồi gỏ keyboard lóc cóc mà cũng đã hơn hai tiếng đồng hồ rồi đó.  Đói bụng rồi, N đi kiếm cái gì ăn nha... Chuyện đời tị nạn của N còn dài lắm nhưng tạm thời N chỉ kể đến đây thôi... từ từ, nếu chăm và có hứng, N sẽ kể tiếp nha… 

Mỗi lần tháng Tư về, nhất là gần cuối tháng Tư; chúng ta đều cảm thấy buồn, thấy nhớ quê hương, thấy bâng khuâng không ít, phải không các bạn? 

Những người Việt tị nạn Cộng Sản không bao giờ quên một cuộc đổi đời to lớn của dân Việt Nam mình, ảnh hưởng đến biết bao nhiêu là thế hệ.

Chúc các bạn mọi sự tốt đẹp, an lành, vui mạnh nhé.

Quách Như Nguyệt
April 24th, 2019

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét