Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 21 tháng 4, 2021

Chuyện Dài Tù Cải Tạo - Trần Kim Diệp

 Sau 1 năm  luyện chưởng  ở  « U Tịch Cốc « thuộc Trại 10 -  Đoàn 776 Hoàng Liên Sơn  , tôi được chuyển về Trại K1 – Tân Lập – Vĩnh Phú do  Công An quản lý . Tuy có tên là Tân Lập , nhưng trại này đã có từ lâu . Trước 1954 là nơi nhốt  tù binh Pháp  . Sau hiệp định Genève thì dùng giam  thành phần  địa chủ , phú nông  và những người làm việc cho Pháp hoặc Chính Quyền Quốc Gia . Tỉnh Vĩnh – Phú có 2 trại tù lớn : Vĩnh Quang và Tân Lập  . Riêng Tân lập thì có 7 Phân Trại mang danh số từ K1 đế K7 và K5 là nơi đặt Bộ Chỉ Huy của Trại Tân Lập . Vĩnh Phú là đất tổ Hùng Vương ,  thuộc vùng trung du Bắc Việt với núi đồi trùng điệp  . Tất cả 7  PhânTrại của Trại Tân Lập đều nằm trong vùng thung lủng bao bọc bởi núi đồi và K1 trong tận cùng .

<!>
Trại Tân Lập được Bộ Nội Vụ chọn làm Trại Kiểu Mẫu cho toàn quốc  do đó được tổ chức quy củ và rất khắc nghiệt . Trong suốt thời gian tôi ở Trại K1 cho đến khi được « tạm tha » , không hề có  vụ vượt ngục nào của  « tù chính trị « ( tức Quân – Cán – Chính của VNCH ) . Còn tù hình sự ( tức thành phần tội phạm ở Miền Bắc như cướp của , giết người , trộm cắp … ) có  trốn trại , nhưng  hoặc bị bắn chết , bị bắt lại tra khảo dã man hoặc do chính gia đình đem nộp lại cho Trại  vì sợ liên luỵ bị cúp tem phiếu mua lương thực , thực phẩm  .

Trại K1- Tân Lập là Phân Trại lớn nhốt khoảng 1.500 tù cải tạo mà đa số là tù chính trị và vài trăm tù hình sự  . Có lẻ VC  muốn pha trộn để nếu có Phái Đoàn Quốc Tế thăm viếng , tìm hiểu ... thì họ lùa hết chúng tôi lên rừng , chỉ để lại Trại thành phần hình sự  hầu dối gạt mọi người  .
Trại K1 hình vuông có diện tích khoảng hơn 1 hecta , cổng chính và 2 bên là những bức tường cao xây bằng gạch và xi măng  . Cạnh đối diện với cổng chính không có tường thành  (nhưng có thể có rào và tôi chưa hề đến khu vực này) tiếp giáp với cái « ao xả » thật lớn  (ao xả là vùng trủng chứa nước từ nơi cao đổ xuống ,  dùng nuôi cá và là nơi tù tắm giặt   ; đầu ao có 1 cái đập chắn để giữ hoặc tháo xả nước  ) . Bốn góc của trại giam đều có vọng gác và ban đêm khi tất cả tù đã «  vào chuồng « (khoảng 19 giờ  sau khi Cán Bộ trực điểm danh , tù chỉ sinh hoạt trong nhà giam và cửa chính của nhà bị khoá  bên ngoài  ) thì có thêm công an tuần tiểu quanh những nhà giam .

Để quản lý trại giam , lực lượng Công An ( tù gọi là bò vàng vì mặc đồng phục màu vàng ) gồm 1 Phân Trại Trưởng cấp bậc Đại Uý ( hay Thiếu Tá ) 1 Thượng Sĩ Phụ trách giáo dục , 25 Cán Bộ Quản Giáo cấp bậc từ Hạ Sĩ Nhất đến Trung Sĩ Nhất  ( Việc thăng cấp của CA thật lạ , 1 tên cán bộ quản giáo thấy mang lon Hạ Sĩ Nhất , khoảng vài tháng sau đã mang lon chuẩn úy )  .
Tên Phân Trại Trưởng  thường chỉ hiện diện ở những ngày lễ lớn hoặc khi có phái đoàn cấp cao viếng trại hay khi phải  « lên lớp «  cho tù .
Việc điều hành trại thì do Cán Bộ Trực Trại và khi tù xuất trại đi lao động thì Cán Bộ Quản Giáo Đội và các Cán Bộ vũ trang trách nhiệm .

Tù thì được chia làm 25 Đội gồm : Đội Nhà Bếp , Đội Rau Xanh , Đội xay xát , Đội Xây Dựng , Đội làm gạch , Đội Văn Nghệ  số còn lại là những Đội Nông Nghiệp .
Mỗi Đội khoảng 50 người tù hay nhiều hơn theo nhu cầu . Trách nhiệm bởi 1 Đội Trưởng và những Tổ Trưởng do Trại chỉ định .

Trên  các Đội có Ban Thường Trực Thi Đua trực tiếp giúp Công An điều hành công việc của Trại . Ban TTTĐ – K1 gồm  : Tr. Tá Dù L.V.ĐÀN ,Th . Tá N.T.KHẢI  Khoá 14 SQHQ/NT ,Đ.Uý N.V.LẬP  Khoá 5 BTV/CSQG ,  Đ.Uý QUANG  và tù hình sự NINH ( án tù chung thân vì giết người nhưng nhờ «  học tập tiến bộ «  được thả sớm , nhưng vài tháng sau lại thấy  quay vào trại ) .
Những TTTĐ được hưởng quy chế riêng  : không ở chung với các Đội , ăn uống riêng , không phải lao động chân tay , trực tiếp nhận lệnh từ Cán Bộ Trại  rồi truyền đạt đến các Đội Trưởng , giúp Cán Bộ điều hành công việc của trại đặc biệt là «  soạn thảo những kế hoạch thi đua !!!« …     .

Lũ tù chúng tôi thì   ở trong những nhà (VC còn gọi là buồng, lán ) dài 20 m , ngang 5 m , ngăn cách nhau bởi các  bức tường . Mỗi nhà chứa khoảng 200 người tù , mỗi người tù  có 2 m chiều dài và khoảng hơn 0,5 m chiều ngang , 1 ở tầng dưới , 1 ở tầng trên , 2 bên là 2 dảy sạp , chính giữa rộng 1m để đi lại . Nhà chỉ có 1 cửa chánh , vài cửa sổ nhỏ có chấn song sắt  . Cuối nhà là nơi dùng  để tiêu tiểu với  1cái  lỗ để thả phân , trên được đặt 2 thanh gỗ hoặc xây xi măng để ngồi , bên dưới là sàn tráng xi măng hoặc đất nện .  Số phân và nước tiểu này thì trưa mai tổ trực của Đội Nông Nghiệp hoặc Đội Rau Xanh sẽ hốt sạch để bón rau hoặc bón lúa  (họ gọi là phân bắc ) . Vì hiếm phân nên ruồi ở K1 tương đối ít hơn các trại tù trong Nam  hay ở Hoàng Liên Sơn   .

Việc ăn uống  ở trại K1 thì thật thảm nảo . Nếu khi còn ở miền Nam thì dù phải ăn gạo sâu ,  mục nhưng cơm không  độn và còn có chút cá , rau  , bí .... Rồi khi ở miền Bắc và  do bộ đội quản lý tuy chỉ ăn bắp xay   ( thỉnh thoảng có bánh bột mì  luộc ) nhưng  mỗi chiều thứ bảy và chúa nhật  tù được  cho hái rau dại quanh trại để  « cải thiện «  thêm . Còn ở trại K1 thì tuyệt đối  « độn » : khoai mì , sắn lát , sắn duôi  (sắn xắt sợi = sắn bào = manioc rapé ) , bắp hạt , bo bo . Còn cơm thì được 4 – 5 lần /1 năm vào ngày đầu năm dương lịch , mồng 1 tết ÂL , ngày 01tháng 5 , ngày 02/09 .Trên nguyên tắc thì mỗi ngày tù được độn 5g gạo , nhưng phần gạo độn trong sắn lát , bắp... chẳng biết đi đâu mất tiêu . Tuy rằng những đội Nông Nghiệp ở K1 có trồng lúa và nếp , nhưng thật khôi hài  là ngày tết được ăn 1 cái bánh chưng làm với 500g nếp tù phải vay trước 100 ngày(  vì tiêu chuẩn chỉ 5g / 1ngày) .

Ăn bắp hạt với tôi  là cực hình (  với những người tù khác chắc cũng thế)  vì ngoài Bắc các hợp tác xã làm việc theo kế hoạch của nhà nước : từ gieo trồng , chăm sóc , thu hoạch ...  . Do đó khi những cánh đồng bắp đã khô họ mới thu hoạch đồng loạt  (đại trà) sau đó hạt được tách ra và phơi tiếp  rồi nộp thuế cho nhà nước bằng sản phẩm ( không nộp bằng tiền) . Họ lại thiếu bao bì như trong Nam nên khi chuyên chở  bằng xe lửa  trên sàn xe đã từng chở than đá ,  bắp hoặc bo bo luôn có lẩn với than đá . Rồi do than , củi khan hiếm  nên hạt bắp nấu thường còn rất cứng  (tù gọi là bắp đá) . Nhiều lần nhai bắp cắn trúng hạt than đá răng tôi bị bễ , đôi khi đang trệu trạo nhai cảm thấy là lạ , dùng lưỡi rà thì có cái răng đã theo bắp xuống viếng bao tử . Nhờ ăn bắp mà 32 cái răng của tôi ngày nay chỉ vỏn vẹn còn có 8 cái làm kiểng ( chưa được xếp vào hạng  « hăng rết »)  .
sắn -
Ăn khoai mì  (sắn) thì càng tệ  . Sắn là loại « cây Chiến lược « của miền Bắc vì dễ trồng  , không kén đất và không đòi hỏi sự chăm sóc , nên ở K1 cũng trồng thật nhiều khoai mì  . Khoai mì  tươi  hấp ăn chơi thì rất ngon , nhưng phải ăn dài dài thì mở mắt hổng ra . Sắn duôi , sắn lát thì càng bi đát hơn . Khác với sắn lát ở ngoài Trung  trắng hếu trông bắt thèm  , sắn lát ngoài Bắc  (tù gọi là sắn đẻo ) họ thu hoạch đại trà vào mùa đông , xắt lát bừa bãi rồi phơi vào mùa lạnh , mưa phùn gió bấc nên sắn lát thường mốc xanh , mốc da cam . Rồi khi nấu không được rửa  sạch  (đội nhà bếp  hoàn toàn do tù hình sự phụ trách) nên  sắn lát nấu xong thường hôi hôi  , nếu đem nuôi heo ở miền Nam chắc heo sẽ lắc đầu bỏ đi chỗ khác , nhưng tù thì không có sự lựa chọn nào khác .
Còn việc ăn bo bo thì cũng chẳng khá chút nào . Bo bo là thức ăn cho gia súc do Ấn Độ viện trợ  . Bao tử con người thì không tiêu hoá được vỏ hạt bo bo , do đó tù ăn bo bo là «  của thiên trả địa « . Vì thiếu răng  và không có thời giờ để nhai kỹ nên ăn bo bo  , cơ thể tù hầu như chẳng hấp thụ được gì .

Trên nguyên tắc thì hàng tháng tù có được  100 g đường , 100g thịt  , nhưng đường thì thật hoạ hoằn chắc vì đồng chí Cuba quên chở qua  . Còn thịt thì dăm ba tháng « ngả »  (giết) 1 con lợn cho 1.500 tên tù thì mỗi người chỉ được 1 – 2 miếng ba rọi  gần bằng 2 ngón tay  . Lý do vì bị chặn xén và  lý do khác là vì «  lợn hơi nên nó bị bay hơi « ( VC gọi lợn hơi tức là kể cả xương , lông   ) .

Vào những dịp lễ lớn trại thường làm thịt trâu , những lúc đó thì tù  rất hồ hỡi «   có thịt nhiều hơn vì  trâu  lớn hơn heo vã lại da trâu cũng được tận dụng . Miền Nam thì chẳng ai biết ăn món da trâu , nhưng  đối với tù da trâu nấu ăn sậc sậc ngon hết xẩy  . Nhiều người tù sau khi được thưởng thức món da trâu đã tuyên bố là »  khi ra tù sẽ lấy quai guốc của Bà Nội , Bà Ngoại chế biến thành thức ăn » .

Khoảng 2 năm 1 lần thì tù được nếm mùi cá , vì khi đó trại xả nước ở ao xả để bắt cá , chủ yếu là dành cho Công An của trại , nhưng ăn mình ên cũng kỳ nên tù cũng được cho chấm mút  đôi chút  .
3 năm tù đầu tiên thì chúng tôi chưa được phép liên lạc với gia đình nên không được tiếp tế  , việc ăn uống của trại giam thì cực kỳ thiếu thốn dù vậy vẫn phải lao động khổ sai vất vả nên những chất dự trử trong cơ thể đã cạn kiệt . Khoảng cuối năm 1978 và đầu 1979  tù bị bệnh và chết nhiều nhất .

Qua 10 bài học vớ vẩn như trử lượng dầu hoả của ta so với của Mỹ như con voi  so với con tem  (timbre) và dầu của ta tốt chỉ múc lên là xài được không cần phải lọc ...  Các đồng chí phi công anh hùng của ta đem MIG lên mây tắt máy chờ  con ma (phantom  F4)   , thần sấm  (thunderchief F105)  của Mỹ đến, ta nhảy ra vồ bắt cả giặc lái của chúng  .... )  trong  những trại tù ở miền Nam và 1 năm đầu ở miền Bắc , VC biết  không « cải tạo » được gì thành phần  Quân – Cán – Chính của chế độ VNCH  nên chúng chuyển sang « chính sách khô máu »  tức  « cột chặt bao tử » đồng thời  bắt  « lao động khổ sai »  để triệt mọi đề kháng của người tù  .
Do chính sách nham hiểm đó  VC đề ra khẩu hiệu  «  lao động là vinh quang »  với lời hứa hẹn  « ai lao động tốt , tiến bộ sẽ được cứu xét cho sớm về đoàn tụ với gia đình « .

Trừ một số trại giam có trước 1975 , người tù phải tự xây cất lấy nhà giam của mình , phải lao động , sản xuất lương thực , thực phẩm để tự túc và nuôi luôn lũ cai tù . Với phương tiện , dụng cụ thô sơ , thời tiết khắc nghiệp cộng với cái đói cồn cào triền miên ... người tù phải quần quật từ thứ hai đến trưa chúa nhật  (chiều chúa nhật nghĩ) , ngày hơn 10 tiếng ( không kể công việc đột xuất hay mùa thu hoạch sắn , lúa ) .

Tình cảm tuy là bản chất tự nhiên của con người , nhưng giáo dục  gia đình và học đường cũng  ảnh hưởng không ít  . Miền Nam theo truyền thống của Tổ Tiên  đề cao  Nhân  Bản nên về tình cảm người miền Nam  vượt xa  người CS miền Bắc theo thuyết duy vật . Chính yếu tố tình cảm muốn sớm được đoàn tụ cùng người thân ở miền Nam  mà tội nghiệp  thay vô số người tù  chính trị VNCH đã gục ngả vì kiệt sức .

Thực ra người tù không chỉ chết vì thiếu đói hay kiệt sức vì lao động mà còn do nhiều nguyên nhân khác . Tuy kém xa miền Nam về văn hoá ,về trình độ khoa học , kỹ thuật ... nhưng về mặt  hiểm độc thì VC đáng bậc thầy , chúng có trăm , nghìn cách để trả thù kẻ hơn chúng về mọi mặt nhưng nay bị thất thế sa cơ . Sau 30.04.1975  chúng đã đuổi hết thương phế binh VNCH ra khỏi  những bệnh viện để  cướp hết thuốc men và vét sạch tất cả tiệm thuốc tây mang  về Bắc , nhưng khi tù bị bệnh - bất cứ bệnh gì  cũng chỉ được bố thí cho vài viên  « xuyên tâm liên »  bá láp , người tù nào có thuốc đem từ miền Nam thì đều bị chúng tịch thu . Mùa đông  miền Bắc  vô cùng lạnh lẻo (riêng năm 1978 nhiệt độ có nơi xuống thấp 0°) , tù chỉ chiếc áo mong manh , không chăn , không được sưởi  . Người tù nào cũng xanh xao vàng vọt  vì thiếu máu nhưng ngày lao động thì bị đỉa , vắt hút máu , đêm thì bị muỗi , rận , rệp hành mà rệp trong trại tù thì hàng hà sa số , còn rận thì chỉ to bằng đầu kim găm màu trắng đục khó thấy , chỉ có thể dùng chai thuỷ tinh lăn cán chúng để diệt tạm   . Đã thế mà đêm đêm  người tù còn phải  học tập , tự phê , phê bình , bình chọn cá nhân  xuất sắc  ( theo nguyên tắc  tù mỗi tháng được ăn 15 cân  sắn , bo bo ..., kẻ lao động kém chỉ 13 cân , người lao động xuất sắc được 18 cân ) . với sự thâm độc này  VC đã dụ dỗ không ít người tù làm ăng ten cho chúng cũng như đã giết đi vô số người già cả , yếu đuối , bệnh tật không lao động nổi theo chỉ tiêu của chúng vạch ra   .

Phần tôi , ở trại K1 – TL lúc đầu tôi lao động ở đội Rau Xanh mà đa phần là những người tù lớn tuối . Nhiệm vụ của chúng tôi là cung cấp rau cho trại tù và  cho Công An quản lý trại  . Tiếng là rau nhưng thật ra chỉ thuần là loại cải củ  (radis)  hoạ hoằn thì trồng thêm cải bắp ( chou) cho  cán bộ .
Cải  từ khi gieo hạt đến lúc thu hoạch chỉ khoảng hơn 2 tuần nên chưa tượng được củ , tù chỉ ăn lá và rễ . Vì thời gian quá ngắn nên muốn đạt chỉ tiêu thì tù phải  « nuôi thúc « tức dùng phân người hoà với nước và nước tiểu để tưới rau . Điều khôi hài là trong tù mọi thứ đều được tận dụng  , do không có giấy vệ sinh , lá cây... nên tù phải dùng  những mảnh giẻ nhỏ của quần áo rách sau khi xả bầu tâm sự , do đó rau được tưới tắm thường có những mảnh giẻ đó bám  , rồi tù hình sự nhà bếp lại chẳng buồn nhặt thế là trong phần » canh đại dương «  (tức chỉ có vài cọng cải và nước muối ) thỉnh thoảng có thêm phần phụ trội đặc biệt này và người tù nào  lở có được mảnh vải đó thì chỉ lẳng lặng vớt bỏ đi rồi thản nhiên thưởng thức phần canh  .
Cạnh khu vực trồng rau có 1 suối cạn chảy ngang  , nhưng  không hiểu tại sao VC không  cho dùng nước suối đó mà bắt lấy nước từ 1 cái ao nước đọng xanh lè ? khiến ghẻ chóc ở chân  của một số tù  bị nhiểm trùng nặng hơn  .
Trại tù thì đông người , đất quanh trại thì không thiếu và đội rau xanh chỉ gồm những người tù lớn tuổi , yếu đuối làm sao cung ứng nổi cho nhu cầu thực phẩm của trại  ? thế mà vài người trẻ hiếm hoi như tôi chỉ vài tháng sau đã phải rời đội rau xanh  để lao động ở đội khác. .


tù đội nông nghiệp

Đội kế tiếp của tôi là đội Nông Nghiệp chuyên  trồng lúa và khoai mì  .
Trước 1975 , tôi ăn đủ thứ gạo nhưng  chưa hề biết làm ra hạt gạo  . Khi lao động ở đội Nông Nghiệp  tôi đã trải qua tất cả các khâu : từ cày , bừa , bón phân  chuẩn bị đất ; ngâm – ủ thóc giống ; gieo , nhổ mạ ; cấy ; làm cỏ- sục bùn ; gặt ; thu hoạch lúa  ( VC dùng trâu quần chứ không đập như trong Nam ) . Sau cùng là phơi thóc và giao cho đội xay xát làm ra hạt gạo  .
Trong việc trồng lúa ở K1 thì nhọc nhằn nhất là khâu cấy   . Khi trời nóng như thiêu thì người tù phải phơi sấy lưng và « tiếp huyết » cho lũ đĩa . Khi trời lạnh thì đĩa trốn sạch , nhưng  dưới cái rét căm căm thì 2 bàn tay của người cấy thường bị tím bầm - co cóng và khổ nhất là phải cấy ở những thửa ruộng  lún phải dùng 2 thanh tre để trượt và  cấy thụt lùi .

Việc trồng lúa ngoài Bắc có nhiều khác biệt với trong Nam  . Đồng bằng Cửu Long thì phù sa màu mỡ nên ngay việc trồng lúa nổi không đòi hỏi chăm sóc , mỗi hecta thu hoạch hơn 3 tấn lúa là thường . Trong khi đất Vĩnh Phú có từ thủa vua Hùng  nên đã cằn cỗi , những nhà máy phân hoá học Hà Bắc , Phú Thọ năng suất quá kém không cung ứng  nổi cho nền nông nghiệp nên chúng tôi hầu như  phải hoàn toàn tự túc  về phân . Để trồng lúa chúng tôi chỉ xử dụng phân chuồng tức phân trâu và phân bắc  tức phân người . Hồi còn tù ở miền Nam chúng tôi  đã chế biến vô số đồ vật thậm chí làm cả cây kim , nhưng rồi trong những lần «  kiểm kê »  bị VC tịch thu hết  thậm chí cả những chiếc găng tay , do đó khi dùng phân người để bón ruộng  VC bắt chúng tôi phải dùng tay bốc phân hôi thối nhọp nhẹp dòi bọ  nhưng chẳng hề có xà bông hay pousse mousse để rửa .
tù lao động khổ sai

VC thường xĩ vả chúng tôi là trước kia « không biết lao động , chỉ ngồi mát ăn bát vàng » , nhưng  khi tù hình sự phụ trách trồng lúa thì mỗi hecta thu hoạch không đến 1 tấn thóc . Rồi khi chúng tôi thay hình sự thì mỗi hecta đạt hơn 3 tấn  . Điều này dễ hiểu vì  với CS  thì  « hồng hơn chuyên » do đó trình độ của chúng ngay cả cấp lảnh đạo   cũng chỉ cở  « lớp ba trường làng »  .
Từ sau khi cấy mạ  đến lúc thu hoạch lúa , trừ 3 lần làm cỏ – sục bùn và bón phân  (ngoài Bắc có câu  « công cấy là công bỏ , công làm cỏ mới là công ăn »  ) ; đội Nông Nghiệp  chúng tôi còn phụ trách việc trồng sắn  (khoai mì) .

Trồng sắn thì thật dễ ai cũng làm được , nhưng  trồng trên những đồi đầy rễ cây dương xỉ , dây leo , đá lẩn với đất ... mà phải đạt chỉ tiêu 100 hốc sắn  vuông vức và sâu 40cm / mỗi ngày với những cái cuốc xì cút chế biến từ những cọc sắt thì vô cùng vất vả  và  không tưởng  . Do đó chúng tôi đã  qua loa , gian dối với sự đồng loả làm ngơ của  Cán Bộ Quản Giáo .

 ​đội vận chuyển
Thỉnh thoảng khi  có xà lan chở than đá về bến Ngọc  , chúng tôi  bị xung công thành đội Vận Chuyển được trang bị  những chiếc « xe cải tiến » tức xe bù- ệc ( brouette) nhưng có thùng xe lớn và gắn 2 bánh xe thay vì 1  . Người xử dụng   tay nâng 2 càng xe  , cổ được choàng 1 sợi dây leo hay dây chuối  , kéo xe như  bò , như ngựa  (VC gọi là « cách mạng giải phóng đôi vai » ) .
Từ tờ mờ sáng chúng tôi phải xuất trại sớm  kéo đoàn xe trên  đường trơn trợt khi lên đồi , khi xuống nơi trũng dưới cơn mưa hay giá buốt  và khi đến nơi phải lao vào giành giựt xúc than với các Trại khác  . Khi tất cả xe đã đầy than , chúng tôi mới được phép  thưởng thức  món sắn « ôi « ( thiu)  với nước muối  .
Đoạn đường đi – về chỉ khoảng 35 km , nhưng  với những chiếc xe than nặng gần 150 kg phải di chuyển thật khó khăn nên khi chúng tôi về đến trại thì những Bạn tù khác đã «  vô chuồng «  .
Nhìn  chung , ở trại Tân Lập – K1 thì trừ đội Nhà Bếp và đội Xay Xát  tương đối «  dễ thở » còn những đội khác đều vô cùng vất vả . Do thiếu dinh dưỡng , chất dự trử trong cơ thể đã cạn kiệt , phải lao động cật lực ...  thời gian từ cuối năm 1978 , người tù chính trị bị bệnh và chết nhiều nhất  .

tù chết khi lao động

Tôi cũng bị nạn trong thời gian này . Nếu năm 1977 , ở Hoàng Liên Sơn tôi thoát chết khi bị bệnh kiết thì lần này tôi cũng may mắn thoát chết khi bị phù thũng   (ấn 1 ngón tay xuống bắp tay , vài mươi phút sau lỗ trũng vẫn còn)  . Rất nhiều Bạn tù chính trị đã bị phù thũng  , mà bệnh này thì phải kiêng cử muối . Trong khi khẩu phần hàng ngày của tù thì chỉ có  « cơm »  độn và « canh đại dương « .

Anh T.H. NGHĨA  ( Trưởng Cuộc Cảnh Sát phi cảng Tân Sơn Nhứt ) bị phù thũng , sau 1 tháng không động  đến phần nước muối  , rồi 1 hôm phần canh đại dương có  thêm chút  mắm ruốc trông bắt mắt , nên được Anh  chiếu cố và  tối hôm đó  Anh đã  vĩnh viễn  «  ra đi «  .

Một cái chết khác cũng thật thương tâm , trường hợp của Anh Đ.P. THỌ – Sĩ Quan Cảnh Sát quê ở Bà Rịa – Vũng Tàu  . Hôm đó tù phải xem phim tuyên truyền « chống  cường hào – địa chủ » của Bắc Hàn . Vì hội trường không đủ sức chứa nên tù phải xem phim ngoài trời dưới cơn mưa . Anh THỌ đang bị cảm nặng nên xin phép được ở lại trong lán , nhưng tên Cán Bộ Trực Trại từ chối với lý do «   không phải xem phim để giải trí mà là  buổi học tập chính trị , sau khi xem phim  phải thảo luận và nộp bài «  . Dưới cơn mưa Anh Thọ run cầm cập và mươi phút sau bị ngất xỉu  . Anh được khiêng lên y xá nhưng đã trút hơi thở cuối cùng . Tù vẫn phải tiếp tục xem phim  và xác anh  Thọ được đặt tạm trong 1 nhà quàn ( 1 cái chòi có nóc và 1 cái sạp tre)  và vì trại không còn áo quan  ( đóng bằng những bìa ván vụn  ) nên khi xác anh THỌ được đem chôn thì một phần mặt đã bị chuột ăn .

Phần tôi ,  từ nhỏ rất thích tìm hiểu về dược thảo và rồi nhờ đọc 1 bài viết của Giáo Sư P. H .HỘ  rằng « cỏ cứt lợn » (  trong Nam gọi cỏ cứt heo) có tính chống sưng «  mà phù thũng thì cũng bị sưng , do đó tôi thường hái cỏ  này trụn với nước nóng khi có thể hoặc rửa sơ rồi ăn như heo ăn cỏ . Ngoài ra nhờ ăn được  ít cám mà  Trại thưởng , do Đội tôi được bình chọn là xuất sắc nhất trong năm . Có lẻ nhờ 2 món đó mà tôi đã thoát lưỡi hái tử thần  .

Ngoài lần bị phù thũng , trong thời gian ở những đội Nông Nghiệp ( VC  chuyển đội và chỗ nằm của người tù thường xuyên ) nhiều lần tôi còn  bị nạn vì «  ăng ten «  tố cáo :
-          1 cựu SQ CS/Nha Trang tố tôi đã «  thu hoạch linh tinh « vì tôi hái những nấm mèo mọc  trên những cây sắn khô .
-          Cũnng chính  Anh ta lần khác tố tôi  « giờ này đã Cách Mạng mà còn nói chuyện dị đoan « Số là VC cấm xài ngoại ngữ , kể chuyện quá khứ ... tù chỉ được nói về lao động , nhưng lần đó đội dàn hàng ngang đào hốc sắn dưới trời nắng như thiêu , để quên vất vả tôi kể chuyện về cái miểu trên đảo Hoàng SA mà năm 1974 tôi công tác ngoài đó có thấy .
-          Lần thứ 3 cũng vị ăng ten này tố tôi  đã « quan hệ linh tinh » . Lần đó đội Vận Chuyển  của tôi sau khi xúc than xong thì trời đổ mưa , tôi nép dưới mái hiên của 1 nhà kho tạm để thanh toán phần ăn trưa  , 1 người tù hình sự giữ kho thò đầu ra khỏi liếp cửa sổ nói với tôi «  sắn ôi thế Chú ăn sao được « , tôi  bảo là không có sự lựa chọn khác  . Anh ta bảo  Chú khoan ăn , đợi cháu  (tù hs luôn xưng hô với tù ct là Chú – Cháu) và vào kho lấy cho tôi 1 vá muối hột  . Tôi cám ơn rồi chia vá muối ra 4 phần , 1 phần cho 1 Bạn tù thuộc Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo ngồi cạnh  , 1 phần cho Anh ta và 2 phần cho tôi . Thế mà trong đêm họp học tập  Anh ta lại giơ tay tố cáo tôi  . May là vị SQ PĐUTƯTB  đã giải oan giùm tôi .
-          Lần thứ 4 thì là 1 SQCS khác - Tổ Trưởng của tôi tố tôi đã «  quan hệ đổi chác linh tinh »  . Tôi chẳng có gì để đổi chác , chỉ nói chuyện với Anh Bạn nằm sát cạnh nhưng  thuộc đội Nông Nghiệp khác . Anh ta cùng học chung trường Nguyễn Đình Chiểu – Mỹ Tho , nhưng khác Quân Chủng  . Chúng tôi chỉ kể về trường cũ thôi , nhưng  Anh Bạn tù này bị Đội đem ra kiểm điểm 1 tuần lễ . Phần tôi chỉ bị kiểm điểm 1 đêm . Tôi đã hết lời phân trần nhưng Ông Tổ Trưởng của tôi  vẫn cố tình ghép tội . Ức quá tôi thề  « nếu tôi có đổi chác gì thì cả gia tộc nhà tôi 3 họ sẽ bị chết thảm , còn nếu tôi không có thì gia tộc nhà Ông sẽ bị như vậy »  . Thế là Ông ta chụp tôi thêm cái tội là Cách Mạng rồi mà còn thề thốt .

Tức cười là sau này tôi được ra tù trước 2 Ông ăng ten này . Chắc vì VC còn cần những người  giúp việc tốt cho chúng ?.

Khoảng năm 1979 thì chúng tôi được phép viết thư cho gia đình , rồi được phép nhận quà mỗi năm 4 quý , lúc đầu là 3 kg , 5 kg , 10 kg và rồi được thăm nuôi  .

Từ Miền Nam ra thăm  tù ngoài Bắc thật «  thiên nan , vạn nan « ; từ khâu phép tắc , phương tiện di chuyển , chắt chiu mua sắm , đề phòng cướp giật ...   1 lọ muối mè , 1 cục đường , 1 con khô ...đến được tay người tù trăm lần quý hơn sơn hào hải vị và là công ơn trời biển của những Bà Vợ , Bà Mẹ hoặc  thân nhân của người tù .

Về quà cáp cũng có nhiều chuyện thật  đau lòng
-          1 người tù nhận được gói quà chỉ có 1 lít cám rang vì khả năng của Bà Mẹ già chỉ có thế.
-          1 Bạn tù quê ở Cà Mau được thăm nuôi chỉ có  1 giõ trái lê ki ma  (Bắc gọi quả trứng gà) vì tất cả thứ khác đều bị cướp sạch .
-          Nhiều Bà Mẹ , Bà Vợ ... đến trại tù thì  Con , Chồng ... đã  « ra gò nằm « ( ra nghĩa địa ).
-          .....................
Vì tù chết nhiều , sợ tai tiếng quốc tế , VC phần nào bớt kìm kẹp  và mượn tay gia đình nuôi tù thay cho nhà nước , nhờ đó sức khoẻ của chúng tôi ít nhiều  được  hồi phục .

Khoảng năm 1980 , tôi « được » chuyển sang đội Lâm Sản .  Đây là « thời vàng son » nhất  trong đời tù của tôi . Tuy cũng vô cùng vất vả vì phải vô rừng , leo núi để chặt củi , đốn gỗ về cho Trại , nhưng chúng tôi được tự do hơn  vì không bị  công an vũ trang  theo sát .

Với mớ  chỉ nylon tháo từ những mảnh áo  giáp khi còn tù ở miền Nam , tôi đã lợi dụng tối đa để cắm câu ở những con suối  ( lưỡi câu uốn từ cọng thép ở talon vỏ xe đạp phế thải ) để có được cá trạch , cá trê , cá lóc , rùa , rắn ...  và chế những cái bẩy thần sầu để bắt chim , gà rừng , sóc ...  giúp cải thiện bữa ăn 
.
Những Bạn tù khác thì do hoàn cảnh gia đình có nhiều quà cáp  thăm nuôi . Còn tôi thì có cả kho tàng thiên nhiên  ưu đải . Bất cứ loại chim nào phải xuống đất ăn hạt ,  ăn côn trùng hay xuống ven suối ăn cua , cá ... thì sớm muộn đều lọt vào tay tôi  . Tôi còn bắt được chim hoạ mi , chim khứu để nuôi chơi .

Ở đội Lâm Sản chỉ tiêu của chúng tôi  mỗi người ngày  phải nộp 1 mét khối củi , nhưng vì củi ngày càng khan  hiếm , chúng tôi  kỳ kèo xuống 7 – 8 tấc khối / ngày  . Ngoài ra , do đã biết “  lao động tiến bộ được về sớm « chỉ là chiếc bánh vẽ , chúng tôi  toa rập với Đội Trưởng , Đội Phó trách nhiệm đo đạc  để « gửi củi trong ngân hàng « tức là dù tôi có được 10 mét khối củi , nhưng không nộp hết mà mỗi ngày chỉ nộp theo chỉ tiêu  . Do đó  , nhiều hôm tôi không hề lao động , chỉ đem võng vô rừng  treo nằm chơi và đi thăm câu , thăm bẩy để bắt cá , bắt chim .

Rồi tôi được chuyển sang làm tài xế xe trâu  cho đội Lâm Sản  (ngon lành hơn lái FERRARI ngoài đời) với nhiệm vụ  ngày 2 chuyến chở củi từ rừng về Trại .
Trại K1 có 2 xe trâu . Trâu và tù đều khổ , nhưng Anh Bạn lái xe trâu kia thì hành hạ trâu ghê lắm  . Có lẻ « giận cá chém thớt » , Anh luôn dùng sống dao đập sừng trâu khiến một hôm trâu bị chết  (có lẻ bị long óc) ; cả trại tù vui vì có thêm chất thịt .

Phần tôi , rất cưng con trâu của tôi . Nó vốn ăn uống  chậm rải,  lại ít được nghĩ ngơi nên  luôn đói , do đó khi di chuyển tôi thường cắt lá tre , lau , lách ... ngồi trên càng  xe thỉnh thoảng  đút  cho nó  ăn  . Tuy không là loài vật thông minh , nhưng con trâu biết tôi thương nó  , nên  luôn ngoan ngoản giúp tôi  hoàn tất tốt công việc . Những khi quá nóng nực hay quá lạnh hoặc phải vất vả lên dốc trơn trợt trâu thường phá chạy càn  , nhưng con trâu của tôi thì không bao giờ  , nhờ đó tôi được rảnh rổi nhiều và  càng có được nhiều chim , cá ... hơn .

Có lần xe trâu tôi đang đổ dốc thì  1 con rắn hổ đất to gần bắp tay và dài khoảng 1 mét 80  cũng đang đổ dốc . Tôi ra lệnh cho trâu dừng lại , nhưng dù khôn trâu chỉ phản ứng theo thói quen của bản năng  , nó ngoái đầu nhìn tôi nhưng vẫn bước , tôi phải hét 2 – 3 lần nó mới dừng hẳn .Lúc đó con rắn đã bò xuống thửa ruộng  vừa cấy . Thường thì trên xe trâu tôi luôn có 1 con dao lớn  , 1 dao nhỏ và 1 cây gậy , nhưng hôm đó con dao lớn và cây gậy đã bị tù hình sự lấy cắp , tôi chỉ còn con dao nhỏ  cở gang tay . Tôi nhặt được nhánh tre nhỏ  dài 5- 6 tấc chạy vòng bờ đê để chặn đầu rắn  . Con rắn bèn quay đầu bò đi chỗ khác . Tôi không thể lội xuống ruộng vì sẽ dẩm mạ , vã lại đang mang giày . Sau nhiều lần bị chặn đầu , con rắn khựng lại nằm bất động dưới ruộng , tôi bèn nhặt 1 cục đất ném để đuổi nó . Rắn bỗng nổi hung , « phùng bàn nạo » , phóng lên cắn tôi . Nhờ biết chút võ Thiếu Lâm và Tae kwon Do  , tôi né tránh rồi dùng roi tre đánh rắn văng xuống nước và đập tới tấp  , tuy không chết nhưng rắn bị nhừ đòn . Cuối cùng tôi vít nó lên bờ đê , dùng dao nhỏ chặt đầu rắn . Hôm đó với chiến lợi phẩm là con rắn hổ  và vài con chim bẩy được , tôi và vài người bạn đã có được  1 bữa ăn ngon lành .

Do hoàn cảnh gia đình nghèo nên suốt thời gian tù tôi chỉ có vài gói quà và 1 lần được  thăm nuôi  , nhưng từ khi thường xuyên có thịt - cá thì ai cũng muốn thân thiện với tôi , thậm chí cả Công An  .

Có lần tên Cán Bộ Y Sĩ của Trại qua trung gian của người tù phụ tá là Th.Tá BÁCH  ( Sĩ Quan An Ninh Biệt Khu Thủ Đô ) xin tôi 1 con chim hoạ mi để nuôi . Tôi từ chối , nhưng Anh B bàn  «  mày không cho , nó thù vặt khi  tù khám bệnh , nó không cho thuốc hay không cho nghĩ  thì khổ anh – em mình «  . Anh B nói có lý nên cuối cùng tôi  đồng ý . Tên Y Sĩ VC hài lòng nên  cho phép nhổ cái răng đau mà tôi đã xin nhổ từ cả năm nhưng luôn bị từ chối . Số là trong tù ngoài việc bị khổ sở vì đói khát , lao động vất vả và phải «  hiến máu » cho đĩa , vắt , muỗi , rận , rệp  tôi còn thường bị những cái răng đau hành hạ . Có khi cả 2 bên má bị sưng vù như ngậm 2 trái mù u  , những lúc đó tôi phải dùng chiếc muỗng tự chế để đưa thức ăn vào nóc giọng và nuốt trọng như  cách người ta gaver  vịt , ngổng ở Pháp .

Việc nhổ cái răng đau của tôi thì thật hy hữu . «  Cưng tôi «  nên tên Y Sĩ  VC cho chích vào nướu răng tôi  ống thuốc tê do Trung Cộng sản xuất đã quá hạn xử dụng mấy năm , do đó thay vì  giúp tôi bớt đau  mấy mũi kim  đâm vào nướu còn làm tôi đau hơn . Sau đó , tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu  và  được nhổ răng bằng chiếc kềm càng cua . Kềm đã bị rỉ sét  , nên khi được  sát trùng  với alcool 90° thì lại càng sét hơn . Sau mươi phút vật lộn với chiếc kềm như nhổ đinh chiếc guốc Đa Kao  Anh BÁCH cũng thành công trục được chiếc răng hàm của tôi . Phần tôi miệng thì đầy máu còn mồ hôi con mồ hôi cha thì nườm nượp chảy xuống thân , may là tuy đau thấu Ngọc Hoàng , nhưng tôi đã không bị nhiễm trùng .  Riêng Anh  BÁCH  vì phải đóng vai Nha Sĩ bất đắc dỉ , trán Anh  cũng rịn mồ hôi  .

Khoảng thời gian từ năm 1980 tình hình ở Trại K1 có thật nhiều thay đổi  . Không chỉ vì hầu hết tù hình sự đều tình nguyện phục vụ và xin các Chú tù chính trị « đở đầu »  để  nương tựa và hưởng chút ơn mưa móc  mà ngay cả với Công An thái độ cũng khác trước « trở nên dễ chịu hơn » . Có lẻ do được  tiếp xúc với thân nhân người tù ra thăm nuôi hay được nghe người miền Bắc có dịp vào Nam trở ra kể hoặc do được nhận những  quà cáp biếu xén  như : đài , đổng , quần bò , tiền ... mà từ tên Phân Trại Trưởng đến chú  Công An tép riu đều  «  cởi mở «  .

Một Anh Bạn tù gốc BĐQ tác chiến thứ dữ rất thích rượu nên thỉnh thoảng lén đổi chác với dân . Thường thì 1 cái áo tù đổi được 1 cân cơm nếp  , 1 con gà luộc và 1 bi đông rượu . Anh H  có tật hể rượu vào thì mặt đỏ như Quan Công . Lần đó sau lao động trở vào Trại thì mặt Anh còn đỏ gay . Tên Cán Bộ trực trại hỏi «  Anh H uống riệu phải không ? «  , dỉ nhiên Anh chối , nhưng tên Công An bảo Anh hà hơi cho 1 tên tù hình sự ngửi . Tên này xác nhận có mùi rượu , thế là Anh H phải bị cùm , nhưng đó là chuyện trước kia , sau này chính những tên CA đi rong đêm đã đề nghị đổi rượu và đem vào Trại cho Anh , dỉ nhiên là hắn cũng có chấm mút cái gì đó  .

Phần tôi , từ khi tù đã 4 lần bị chuyển trại . Với VC mỗi khi chuyển trại chúng chỉ báo trước nửa giờ hoặc  1 giờ để tù chuẩn bị , nhưng lần tôi ra tù thì được 1 tên CA phụ trách văn thư lén báo trước mấy hôm  . Tuy không tin nhưng tôi cũng nuôi hy vọng và càng nổ lực bẩy chim , câu cá để làm tiệc đải Bạn – Bè  . Rồi tin chính xác , tôi được rời nhà tù nhỏ  .

Chúng tôi được chở bằng xe lửa từ ga Ấm Thượng về ga Hàng Cỏ ở Hà Nội . Khác với lần ra Bắc năm 1976 , lần này chúng tôi không bị chửi mắng và bị ném đá , mà dân Hà Nội bu quanh  để nói chuyện , họ không gọi chúng tôi là Nguỵ nữa mà gọi là  « dân Sài Gòn bị ở tù «  .
Mấy tên Công An áp tải thật bối rối , báo cáo cấp trên và nhận lệnh «  trong khi chờ chuyến xe lửa thống nhất Bắc – Nam  họ tạm đưa chúng tôi vào  Hoả Lò «  với lý do « để bảo vệ an ninh cho chúng tôi «  .

Thời gian tạm trú ở Hoả Lò , một số người nhất là dân gốc Hà Nội  yêu cầu được ra phố để  mua thức ăn  . CA/ VC chỉ đồng ý cho 6 người đại diện , tôi gốc Nam Kỳ không hề xin đi , nhưng chúng lại chỉ định . Thế là tôi cũng có dịp thấy sơ bộ mặt của thủ đô nghìn năm văn vật ( dơ bẩn và xơ xác hơn Chợ Lớn hồi thập niên 50 ) và lần đầu tiên được thưởng thức món « phở không người lái »   dở nhất thế giới .
Hai hôm sau khoảng 3 – 4 giờ sáng tôi về đến ga Bình Triệu . Xuống xe mà ngơ ngác như Mán lên thành vì  trước khi đi tù tôi đâu biết gì về ga này . Một chiếc xích lô trờ tới , tôi hỏi giá để về đường Thích Quảng Đức – Phú Nhuận . Anh phu xe ra giá 30 đồng , nhưng túi tôi chỉ vỏn vẹn có 15 đồng nên đề nghị là Anh chở tôi 1 đoạn đường , khi đã nhận dạng được điểm quen tôi sẽ tiếp tục đi bộ về nhà . Anh phu xe đồng ý nhưng khi biết tôi vừa ra tù từ miền Bắc thì Anh vui vẻ chở tôi về đến tận nhà  chỉ với  15 đồng . Có lẻ Anh cũng là cựu tù nay phải đạp xích lô để kiếm sống nên đã thông cảm  .

Rồi tôi lái ghe thuê , vượt biển đến đảo quốc  Singapore . Tuy được ưu tiên đi Mỹ vì có huy chương của Đô Đốc ZUMWALT – TL/HQHK/ở VN ( do trước kia tôi đã cứu mạng 3 quân nhân Mỹ) , nhưng  cay cú về sách lược chính trị của HK  đối với VNCH nên tôi từ chối và chấp nhận đi Pháp  . 
Tôi đến Pháp cuối năm 1983 – thời mà đảng Cộng Sản Pháp cực thịnh nên  không gặp thuận lợi , phải vô cùng vất vả để ổn định cuộc sống .

Ngày nay đã qua tuổi cổ lai hy , nhưng tôi có sức khoẻ tốt , vật chất đủ   thật  tự do . Đã hết cơn bỉ cực từ nhà tù nhỏ đến nhà tù lớn của VC ,  hiện tôi vô cùng hạnh phúc ở tuổi già  .

Paris , Xuân Bính Thân 2016
              HQ.tkd

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét