Nhà yêu nước Phan Châu Trinh.
LTS: Năm
1925, cũng vào một ngày tháng 6, Phan Châu Trinh từ Pháp về
tới Sài Gòn sau bao năm bôn ba hải ngoại. Nhưng sau một thế
kỷ, liệu đồng bào ông đã có thể hiểu hết tư tưởng của con
người được nhà văn hóa Nguyên Ngọc gọi là “bộ óc minh mẫn
nhất của đất nước đầu thế kỷ XX” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học,
giáo dục và dân trí, kỷ niệm 130 năm ngày sinh Phan Châu
Trinh, 1872 - 2002).
Bài viết dưới đây cho thấy tư tưởng Phan Châu Trinh tới nay vẫn còn nhiều điều quá mới mẻ!
<!>
Hiềm vì nỗi học hành sai lối
Thóc vứt đi rơm bổi quơ về
Sai lầm từ thuở nhà Lê
Trải qua nhà Nguyễn sai bê dần dần
Thóc vứt đi rơm bổi quơ về
Sai lầm từ thuở nhà Lê
Trải qua nhà Nguyễn sai bê dần dần
(Phan Châu Trinh - Tỉnh quốc hồn ca)
Đầu
thế kỷ XX, khi đi tìm con đường cứu nước, giới nho sĩ Việt Nam
đã sản sinh ra một cặp đôi, vừa giống nhau lại vừa khác nhau:
Phan Bội Châu (1867 - 1940) và Phan Châu Trinh (1872 - 1926).
Năm
1905, hải quân Nhật thắng Nga khiến cả Đông Á hiểu rằng, muốn
chiến thắng phương Tây, phải trở thành phương Tây, tức hiện đại
hóa. Ở Việt Nam, từ cuối thế kỷ XIX, vào lúc thực dân Pháp bắt
đầu xâm lược nước ta, đã có những tư tưởng canh tân của Nguyễn
Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Trương Vĩnh Ký... Nay, tấm gương
Nhật Bản nhãn tiền hơn.
Phan
Bội Châu một mặt lập ra phong trào Đông Du, gửi thanh niên
Việt Nam sang Nhật học, đặc biệt ở các trường quân sự. Đồng
thời cầu viện chính phủ sở tại giúp đánh đuổi người Pháp bởi
nghĩ rằng Việt Nam và Nhật dẫu sao cũng máu đỏ da vàng, đồng
văn đồng chủng. Mặt khác, ông còn thành lập Việt Nam Quang Phục
Hội ở trong nước, quyên tiền mua vũ khí, chờ thời cơ nổi dậy.
Như vậy Phan Bội Châu tiếp tục đi theo con đường truyền thống:
phản ứng tức thì, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, giành độc lập
trước rồi hiện đại hóa đất nước sau.
Phan
Châu Trinh, ngược lại, mở ra con đường cứu nước phi truyền
thống, không dùng bạo lực mà dùng văn hóa, đòi hỏi một cái nhìn
sâu xa hơn. Với các nhà nho đầu thế kỷ XX, mất nước không chỉ
mất chủ quyền, lãnh thổ, chế độ, tức chính trị, mà quan trọng
hơn mất văn hóa, tức mất hệ quy chiếu, một sự tồn tại với tư
cách là người Việt Nam.
Bởi
vậy, ông ưu tiên nhiệm vụ xây dựng một xã hội hiện đại, một
nhà nước cộng hòa, tức xây dựng một nước Việt Nam mới, với một
văn hóa mới. Phương châm hoạt động của ông là “khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh”. Trước hết, ông từ quan cùng Trần
Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng vào Nam bộ xem xét tình hình, rồi ra
Hà Nội cùng Lương Văn Can mở Đông Kinh Nghĩa Thục (1905) hô hào
tân học. Ông cổ động học chữ quốc ngữ, mặc Âu phục, cắt bỏ búi
tóc, thuyết phục các nhà nho, theo gương các võ sĩ đạo Nhật
Bản, ra làm ăn buôn bán để làm giàu cho đất nước.
Phan
Châu Trinh còn lên Yên Thế gặp Đề Thám (1905), rồi trốn sang
Nhật Bản gặp Phan Bội Châu để thảo luận về đường lối cứu quốc
(1906). Về nước, ông càng quyết tâm con đường Duy Tân Minh xã
của mình. Ông công khai phê phán tầng lớp nho sĩ quan/thư lại
hủ bại của chính phủ Nam triều. Ông gửi thư cho Toàn quyền
Beau, người đã có một vài chủ trương cải cách giáo dục, để đề
nghị phế bỏ chế độ quan lại thối nát và sử dụng các nhân sĩ vì
nước, vì dân cùng khai hóa dân chúng.
Như
vậy, đường lối cách mạng của hai nhà nho duy tân song trùng
này hoàn toàn trái ngược nhau. Đó không chỉ do cốt cách của mỗi
người mà chủ yếu vì họ đại diện cho hai xu hướng tư tưởng bấy
giờ. Không chỉ vấn đề cá tính của các cá nhân, mà là căn tính
của dân tộc. Điều ấy, kể từ khi hai người gặp nhau ở Nhật Bản,
đã được Phan Châu Trinh thức nhận một cách sâu sắc.
Ông
cho rằng, chủ thuyết của Phan Bội Châu trùng khít với tâm thức
dân tộc, hơn nữa ông ấy còn có tài văn chương và, quan trọng
hơn, được phát ngôn tự do ở nước ngoài, nên dễ chiếm được lòng
người hơn. Còn chủ trương của ông thì đi trước dân chúng, trái
khoáy với ứng xử truyền thống với kẻ thù, hoàn cảnh nói năng
lại chịu nhiều ràng buộc, nên chỉ được một số ít trí thức theo
phục. Từ đó, Phan Châu Trinh thấy trước được sự thắng lợi của
Phan Bội Châu và sự thất bại tất yếu của mình.
Sở
dĩ Phan Châu Trinh dám đi ngược lại chân lý số đông, bởi ông
nhìn xa hơn. Trước một thế lực mạnh, vấn đề không chỉ là xem
kẻ mạnh đối xử như thế nào, mà quan trọng hơn, xem kẻ yếu
đối xử ra sao.
Xin hãy lắng nghe sự phân tích sâu sắc của ông: “Tôi
tự biết vì lý do nào mà chủ nghĩa của ông ấy [Phan Bội Châu -
ĐLT] được đưa ra thì rất yếu, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính
của dân nước Nam thì rất mạnh. Chủ nghĩa của tôi [Phan Châu
Trinh - ĐLT] lý do đưa ra thì rất mạnh, nhưng nếu áp dụng vào
đặc tính của người nước Nam trong tình thế hiện tại thời rất
yếu.
Chủ
nghĩa của ông ấy rất hợp với đặc tính và trình độ của quốc
dân, lại nhắm vào chỗ mạnh mà lợi dụng, mà vì ở hải ngoại nên
ngôn luận tự do, dễ có người theo, do đó chủ trương của ông
ấy sẽ tất thắng. Chủ nghĩa của tôi tương phản với đặc tính và
trình độ của quốc dân, lại nhắm vào chỗ yếu mà cứu và vì ở
trong nước nên bị các thứ lực chèn ép và nghi kỵ tập trung
vào, các hoạt động và ngôn luận đều không được tự do nên
người theo cũng khó, do đó chủ nghĩa của tôi tất bại”.
Đương
thời Phan Châu Trinh ít được hiểu. Điểm mấu chốt nhất mà người
ta nghi ngờ, phê phán chủ thuyết của ông, đó là sự hợp tác với
người Pháp. Theo lẽ phải thông thường, Pháp là kẻ thù của dân
tộc, nên muốn cứu dân tộc thì trước hết phải đánh đuổi, đằng
này Phan Châu Trinh lại chủ trương hợp tác. Sở dĩ Phan Châu
Trinh dám đi ngược lại chân lý số đông, bởi ông nhìn xa hơn.
Trước một thế lực mạnh, vấn đề không chỉ là xem kẻ mạnh đối xử
như thế nào, mà quan trọng hơn, xem kẻ yếu đối xử ra sao. Ông
thấy rằng con đường giải phóng đất nước phải chia thành nhiều
giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên, cơ bản là xây dựng nền tự trị
(autonomie) /tự lực /tự cường.
Bởi
lẽ, cuộc xâm lược của thực dân Pháp không thuần túy là cuộc
xâm chiếm lãnh thổ, vậy nên phải trang bị cho dân chúng những
phương tiện để họ tham dự vào cuộc tiến hóa toàn cầu: hiện đại
hóa. Độc lập, bởi vậy, không phải là đứng một mình, mà là liên
lập, tức đứng cùng, đứng với. Đó là con đường xây dựng một nước
Việt Nam mới/ Tân Việt Nam. Điều này cho đến gần đây ở Phan
Châu Trinh còn bị bưng kín, nên người ta chỉ biết đến ông với
những ý tưởng và hành động lẻ tẻ không kết nối vào nhau. Vậy
nên người ta không hình dung được Phan Châu Trinh còn là một
nhà khai minh cho tư tưởng hiện đại hóa Việt Nam.
Tự
trị gồm có hai loại: tự trị như một thể chế, và tự trị như một
quá trình. Với Phan Châu Trinh thì tự trị là bước đi đầu tiên
nhưng cơ bản để đến với độc lập một cách vững chắc. Tiến trình
tự trị hóa của ông trước hết khởi từ cá nhân hóa, rồi mới đến
xã hội hóa, tức tự trị hóa tập thể. Điều này đòi hỏi sự tự giác
cá nhân chứ không phải do sức ép của tập thể, cộng đồng. Trong
trường hợp này tu thân, nguyên lý đầu tiên của giáo dục Nho
giáo quả là hết sức đúng đắn trong việc tự trị hóa.
Càng
đúng hơn với Phan Châu Trinh, học võ từ nhỏ, cha bị đồng chí
Cần Vương giết oan, được mẹ nuôi dạy, nếu không tự lập thì
không thể đỗ phó bảng. Rồi đến khi làm quan thì hòa mà không
đồng. Và rồi cũng nhanh chóng từ quan, tự tách mình ra khỏi
quan trường để tìm một đường đi mới.
Như
vậy, trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, Phan Châu Trinh là
kẻ thiểu số, vừa trung thành với những giá trị phổ quát của Nho
giáo vừa tin vào các trí thức mới theo Công giáo, những người
tiếp thu nền giáo dục phương Tây. Tất cả những điều trên tạo
cho Phan Châu Trinh tính tự tin, quyết tâm và thực tiễn, hay
nói khác là tính tự trị. Chính sự tự trị hóa khiến mỗi cá nhân
sẵn sàng làm chủ vận mệnh của mình. Một nước Việt Nam mới phải
bao gồm những cá nhân đã được tự trị hóa như vậy. Đây là cơ sở
để hiện đại hóa xã hội, cơ sở cho một thể chế của quyền tự do
cá nhân. Hơn nữa, hiện đại hóa còn chứa đựng trong đó một tiềm
năng: tính toàn cầu. Mà nhờ đó, Phan Châu Trinh phân biệt được
người Pháp nói chung và những người Pháp thực dân để làm cơ sở
cho sự hợp tác.
Với
dự án tự trị hóa đất nước như đã trình bày ở trên, Phan Châu
Trinh không còn là một nhà nho truyền thống nữa. Việc ông chối
bỏ nguyên lý thứ nhất trong ngũ luân: quan hệ vua - tôi bằng
việc xưng “tôi”, “Trinh tôi” với Khải Định đã nói lên điều đó.
Nhưng ông cũng chưa phải là một trí thức Tây học. Chính sự “vừa
không phải là..., vừa không phải là ...” này tạo cho ông một
tư duy độc lập, một đột phá về tư tưởng.
Sự
tồn tại của Phan Châu Trinh như một nhà tư tưởng mở đầu cho
hành trình hiện đại hóa của Việt Nam đến nay hình như vẫn chưa
được thức nhận, bởi ông và tư tưởng của ông, vẫn còn quá mới
mẻ.
Đỗ Lai Thúy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét