Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 29 tháng 7, 2020

HỒI TƯỞNG LẠI 40 NĂM TRƯỚC VỀ CHUYẾN ĐI ĐỊNH MỆNH CỦA TÀU TRƯỜNG XUÂN - Thuyền Trưởng Phạm Ngọc Lũy

Tháng 11/1974, tàu Trường Xuân ra Hòn Khói lấy muối để chở đi Singapore. Gió Đông Bắc thổi mạnh, lùa từng cơn gió giật vào vịnh, khiến những ghe nhỏ không thể cặp vào tầu để vợi muối. Số muối dự định chở sang Singapore phải bỏ lại đến 1 phần 3. Tàu Trường Xuân rời Việt Nam đang lúc tình hình chiến sự nghiêm trọng. Giao kèo chuyên chở hàng hóa trong vùng Đông Nam Á đến hết tháng 6/75 mới thể trở về Việt Nam. Tôi thật sự lo lắng miền Nam không thể đứng vững, đồng minh đã bỏ chạy, còn Bắc quân cả một hậu phương rộng lớn: Trung Cộng các nước trong khối Liên  Trường Xuân đến Singapore, ghé Bangkok, rồi đi Phi Luật Tân... Hết Cebu đến Manila, qua Ternate Nam Dương rồi đến Balik Papan thuộc Borneo.Trong khi đó coi trên TV thấy tình hình đất nước ngày một khẩn trương. Qua đài BBC, VOA, hết Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn, đến Nha Trang, miền Cao Nguyên Trung Phần rơi vào tay Cộng Sản. Quân đội miền Nam tiếp tục di tản, cảnh dân chạy loạn thật hỗn loạn, bi thảm. Những lan, những ghe thuyền chở đồng bào tị nạn từ miền Trung trôi dạt ngoài biển, không lương thực, không nước uống 
<!>

Hình ảnh những bao rác đựng xác trẻ con đem từ các lan xếp thành hàng dài ngoài bãi biển Vũng Tàu cùng những hình ảnh bầy trẻ lạc cha mẹ trong các trại tị nạn đã gây nhiều bàng hoàng xúc động mãnh liêt. 
Tôi không phải một quan trong quân đội cầm súng chống quân thù. Tôi một nhà hàng hải, thể giúp được cho Quê Hương, cho đồng bào trong cảnh khói lửa điêu linh này? Tôi rất muốn được giúp đồng bào tôi, được cùng chia xẻ với đồng bào trong giờ phút đau thương này. Ngồi trên con tàu cách xa quê hương ngàn dặm lòng tôi bồn chồn như lửa đốt...  
Tôi cố hồi tưởng viết lại những sự kiện đã giúp cho 3628 đồng bào chúng tôi bất chấp hiểm nguy, cùng nhau vượt biển khơi để tránh khỏi rơi vào tay Cộng Sản đi tìm Tự Do. 
Sau đây diễn tiến của nhiều việc đã đưa đến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân. Những sự kiện sau này lúc ngẫm nghĩ lại thì tôi thấy dường như đã được sắp đặt một cách huyền diệu để đưa tàu Trường Xuân ra khơi, để thử thách mọi người trên tàu phải phấn đấu để đạt được niềm ước vọng quí giá hai chữ Tự Do.  
 Bến Kho 5, Khánh Hội, 
Saigon, 30/4/1975 
Tàu Trường Xuân rời bến Kho Năm, Khánh Hội, Saigon hồi 1 giờ 25 phút trưa ngày 30/4/1975 sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, quân Cộng sản tiến chiếm Saigon hồi 10 giờ sáng...Diễn tiến lịch trình của Trường Xuân như sau. 
(1) Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây số đang tiến về Thủ đô không gặp sự kháng cự nào.” 
Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi quay trở về Saigon.  
(2) Lúc ghé Singapore, khí trưởng tàu Trường Xuân đi phố chơi, ăn nhậu say, khi về đến cổng thương cảng thì bị vấp ngã, bị thươngđầu bất tỉnh nhân sự. Cảnh sát phải chở đi nhà thương điều trị. Tàu Trường Xuân về đến Saigon, khí trưởng xin tạm nghỉ việc để điều trị vết thương. Vị khí trưởng này thường phát biểu ý tưởng nhiều thiện cảm với phe bên kia cho nên tôi nghĩ rằng nếu anh ta không gặp tai nạn thì đến ngày 30/4 chưa chắc anh ta đã chịu xuống tàu để di tản đến giờ phút cuối cùng thì không dễ tìm được một người khí trưởng 
(3) Tàu Trường Xuân về đến Saigon ngày 17/4/75, cặp bến Thương cảng Khánh Hội gặp nước ròng nên tàu cặp bến quay lái (phía sau tàu) ra biển. Tàu đã đến hạn lênđể tu sửa đại kỳ hàng năm. công xưởng hải quân bận việc nên tàu chỉ tu sửa những bộ phận cần thiết ngay tại bến thay nằmcả tháng trời. Tàu lấy hàng 300 tấn sắt vụn, lấy 80 tấn dầu, 100 tấn nước ngọt 10 bao gạo để chuẩn bị đi Manila. Tàu thể khởi hành ngày 24/4/75 nhưng tôi nấn chưa khởi hành tình hình đất nước mỗi ngày một nghiêm trọng...  
(4) Tôi xin Công Ty Vishipco tuyển dụng khí trưởngHồng Phi. Mãi đến sáng ngày 29/4/75 Công Ty mới chấp thuận cho khí trưởng Phi nhận việc. 
(5) 5 giờ chiều ngày 29/4/75, tôi xuống tàu không gặp khí trưởng Phi, quan phụ cho biết Phi đã về nhà đưa gia đình ra bến thương cảng để cùng di tản. Tôi dùng phấn viết lệnh rời bến lên bảng đen cho thủy thủ đoàn: “Tàu rời bến ngày 30/4/75 hồi 11:30 sáng.”  
(6) 6 giờ sáng 30/4/75, Trần Khắc Thuyên chở tôi ra tàu cùng với Phạm Trúc Lâm. Đường sang thương cảng Khánh Hội bị chắn nhiều khu phố. Sau khi quan sát tàu, Thuyên đưa tôi về nhà để hướng dẫn hai xe GMC chở khoảng 200 người gồm gia đình, thân nhân con lối xóm, ra thương cảng...  
(7) Bình thường trước khi tàu khởi hành, quan phụ phải cho thử tay lái trên đài chỉ huy để bảo đảm chạy tốt, chính tôi cũng thân hành tự kiểm soát lại. Tuy nhiên sáng 30/4/75, tôi nhớ đã tự nhủ phải đi kiểm soát lại tay lái xem trục trặc không, nhưng tôi lại quyết định không thử tay lái bụng bảo dạ: “Giờ này còn đi lo những việc nhỏ... Cộng quân đã tiến vào Saigon rồi... Việc thử tay lái đã quan phụ lo...” Rồi tôi lại tự trách sao lại đi lo những chuyện không đáng lo. thực ra không hiểu sao chính quan phụ lần đó cũng quên thử tay lái trước khi nhổ neo, nếu được biết trước tay lái đã bị hỏng hay bị phá hoại thì tôi đã không dám cho tàu rời bến 
(8) 9 giờ sáng 30/4/75, quan tuyến điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra cổng thương cảng để can thiệp với nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu để di tản. Ra đến cổng thì thấy đồng bào chạy nhớn nhác như một đại nạn đang ập đến. Không thấy gia đình, Diệt xin nghỉlại tìm gia đình... Một thủy thủ đoàn tối thiểu phải Thuyền Trưởng, khí trưởng quan tuyến, nhưng bây giờ quan tuyến đã xinlại. Tôi đành phải chấp thuận biết ra lệnh buộc anh phải đi cũng chẳng được... (Ba năm sau anh Diệt di tản bằng thuyền, định vùng Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.)  
Tôi buồn trở về tàu, trong lòng hoang mang lo ngại không biết tìm đâu ra một quan tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, quan tuyến điện của một tàu khác đến xin nhận việc. Tôi mừng rỡ nhận lời ngay thầm cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại Pháp quốc.) 
(9) Khoảng 12 giờ trưa 30/4/75 , dân cũng như quân ào ào đổ xuống tàu. Cầu thang để leo lên tàu đã bị gãy. khí trưởng Phi báo tin tàu thể khởi hành tôi ra lệnh khởi hành. Vừa mở giây buộc cho tàu tiến nhẹ, bẻ nhẹ tay lái sang phải, tàu chạy thẳng. Tay lái không ăn! Tàu ngừng chạy, cặp lại bến. Tôi mới nhận ra tay lái đã bị hỏng. Hệ thống tay lái dùng dầu ép để điều khiển bánh lái, nhưng sau được biết hệ thống điều khiển bánh lái đã bị kẻ nào phá hoại trút dầu ra cho nước vào. 
Thật một sự kiện kinh hoàng đến choáng óc. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc hủy bỏ chuyến đi... khí trưởng sau khi xem xét lại hệ thống lái, cho biết tay lái phòng hờ còn xử dụng được. Trong suốt cuộc đời làm Thuyền trưởng tôi chưa bao giờ phải xử dụng tay lái phòng hờ, bây giờ lại không lấy được một người thủy thủ biết lái. Chưa biết đối phó với tình huống nan giải thì một người đứng gần đó tự nguyện nhận điều khiển tay lái phụ... 
(10) Khoảng 13 giờ, (1 giờ chiều 30 tháng tư-75) nước bắt đầu lớn - thủy triều lên. Tôi cho mở giâyphía lái tàu để tàu tự động xoay 180 độ trên sông, hướng mũi ra khơi... Ngay lúc tàu vừa rời bến, một cơn gió nhẹ thổi từ bờ đẩy tầu ra giữa sông. 13 giờ 25 tàu khởi hành. Từ đài chỉ huy, tôi ra lệnh lái tàu qua một ống loa dài chừng 20 thước dẫn đến người bẻ bánh lái ngồi trong một cái chòiphía sau tàu. Lúc đầu tôi ra lệnh sang phải 10 độ thì tàu lại hướng sang phía trái. Tôi chợt nhận ra ngay núm điều khiển tay lái phụ chỉ ngược chiều với hướng tàu chạy. Bắt đầu từ đó, muốn tàu sang bên phải thì tôi lại ra lệnh ngược lại. Cứ thế đi trên sông. 
(11) Đến khúc sông rộng, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng khí trưởng hét lên qua ống loa: “Thuyền trưởng cho bỏ neo ngay! Phải ngừng máy đèn!” Ai bỏ neo bây giờ? Bỏ neo rồi làm sao kéo neo lên? Máy tàu ngưng, tàu vẫn chạy ngon trớn 
Đầu óc rối như ! Nhưng lúc này cần phải bình tĩnh, không thể làm một quyết định sai lầm. Tôi biết rằng không thể bỏ neo ngay lúc này khi máy trên tàu bị hỏng sẽ không dùng máy để kéo neo lên được. Cũng không thể để tàu chết máy nằm dọc bờ sông khi nước triều xuống thì tàu sẽ mắc cạn tầu sẽ lật nghiêng. Cách còn lại duy nhất tàu thể tự cứu vãn tìm cách cho tàu lên cạn, mũi ghếch lên bờ, chân vịt chìm dưới nước. Chờ máy sửa xong thì tàu sẽ tự rút ra được. Chiều xuống, tàu vẫn đâm mũi vào bờ chờ sửa máy. Hỏa châu của Cộng sản mừng thắng trận nổ vang rền, sáng rực khu Rừng Sát. Tàu không thể rút ra được không còn hơi ép cho nổ máy. Cái nguy căn bản nhất không còn hơi ép để cho chạy máy đèn. Máy đèn chạy mới thể hơi ép làm nổ máy cái. khí trưởng Phi cho biết nhân viên châm dầu đã tự ý khóa hệ thống làm nguội máy đèn... Đây thể một hành động ý thức hay phá hoại, nhưng tôi nghĩ bây giờ không phải lúc xét xử điều tra phải làm sao cứu vãn được con tàu 
Tàu Trường Xuân chờ Tàu kéo Song An, Saigon, 30/4/1975 
Tàu ở tình trạng hiểm nghèo. Tôi đã phải tự trấn an: “Cần bình tĩnh! Nếu tàu nằm mắc cạnđây chắc chắn Cộng sản sẽ bắt hết mọi người. Cùng lắm chúng xử bắn mình cùng...” Tự nhủ như thế để tâm trí không bị rối loạn nếu làm những điều sai lầm trong giờ phút này mất hết. Tàu kéo Song An từ Vũng Tàu về đi ngang vào đúng lúc này. Nhiều người lên tiếng kêu cầu cứu nhưng Song An vẫn chạy thẳng. Trong lúc đó một chiếc tàu Hải quân nhỏ chạy từ hướng Saigon đến. Tàu Hải quân thấy vậy bèn nổ một phát súng thị uy. Tiếng nổ ầm vang chấn dội lồng ngực, Song An phải quay trở lại. Sau nhiều lần cố gắng kéo tàu Trường Xuân giây kéo đều bị đứt. Đến gần tối thì nước lớn, Song An mới kéo được tàu Trường Xuân ra sông, rồi tiếp tục kéo cho mãi đến 8 giờ ngày 1/5/75 mới tới Vũng Tàu.  
(12) Rút kinh nghiệm di tản từ miền Trung đã bạo động trên những lan, cho nên tàu vừa rời bến Saigon, tôi đã kêu gọi thành lập Ban Trật tự Ban Cứu thương. Nhờ sự tận tâm của Ban Trật tự nên không xảy ra bạo động. Nhờ Ban Cứu thương, đã em sinh ra trên tàu, giữa biển cả, được mẹ tròn con vuông. 
(13) Vừa tới hải phận quốc tế, (ngày 1 tháng 5-75) lệnh hạ khí giới được triệt để tôn trọng 
Tàu khởi hành ra khơi tám cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ xuống. Thật may mắn khi chúng ta gặp biển lặng sóng êm. Nếu biển động những dây buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu nhiều người thể bị thương hay bị thiệt mạng tai nạn khủng khiếp này 
(14) Một người rớt xuống biển. Gần tối ngày 1/5/75, sau khi vớt được anh Văn Thụ, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Tôi tin tưởng đồng bào đều chứng kiến việc làm đầy thiện chí, lo lắng cho sự an nguy của một nhân mạng, mọi người cũng sẽ từ bỏ lòng vị kỷ nghĩ đến những người đồng cảnh ngộ với mình 
Tàu Clara Maersk Trường Xuân(15) Nhờ quan tuyến gửi đi những tiếng kêu cầu cứu nên con tàu thiên thần Clara Maersk (Đan Mạch) đã đến cứu đưa chúng ta đến bến bờ Tự Do.  
(16) Ngày 2/5/75, khi tất cả mọi người đã được chuyển sang tàu Clara Maersk an toàn thì một người từ phòng máy đi lên, thấy tôi vẫn đứng một mình trên đài chỉ huy 
Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu bao nhiêu đồng bào gia đình mặc họ đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt thật buồn rồi nói: “Tôi vừaphòng máy lên, phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước sang tàu Clara Maersk. Tôi đã đi nhiều nơi gặp nhiều thân hữu Trường Xuân, để ý tìm gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.  
(17) Hội Ngộ Trường Xuân 30 năm ở Houston vào đúng ngày 30/4/2005, tôi đã gặp Đại Úy khí trưởng Nguyễn Thế Phiệt, người đã tự nguyện xử dụng tay lái phụ 
(18)Ngày 12/6/2006,  tôi được gặp lại Trưởng Ban Lực Lượng Đặc Biệt Bùi Đăng Sự đi trên chiếc tàu Hải Quân nhỏ từ Saigon chạy ra. Anh đã bắn phát súng thị uy bằng súng phóng lựu M79, nên tàu Song An đã quay lại đưa 3628 người chúng ta ra khơi. Anh Sự một số người trên tàu Hải quân đã lên tàu Trường Xuân trong lúc tàu Song An buộc dây kéo tàu Trường Xuân ra khỏi cạn 
(19) 40 năm đã trôi qua hình ảnh diễn tiến chuyến đi định mệnh của tàu Trường Xuân vẫn còn in trong tâm trí tôi. Những sự kiện dường như đã được tiền định để cho tất cả chúng ta cùng gặp nhau trên con tàu để phải cùng phấn đấu cùng đến được bến Tự Do.  

Phạm Ngọc Lũy 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét