Ảnh: Internet
Gần
đây tôi có đọc được trên mạng một số bài báo cáo, khảo sát và bình luận khá xúc
tích về vấn đề tham nhũng ở Việt Nam (VN) (xin xem danh sách tham khảo cuối
bài, các bài[1],[2],[3],[4] và[5]). Trên trang mạng của vov.vn có đăng bài viết
của ông Phan Đình Trạc[1], Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung
ương, Phó Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương (BCĐTƯ) về phòng, chống tham nhũng (PCTN)
của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).Bài
viết này có những chi tiết mà ai đọc cũng phải giật mình. Giật mình vì tình
trạng tham nhũng ở VN trong 5 năm cuối (2013-2018) từ khi thành lập Ban Chỉ đạo
PCTN đã có thể gọi là ngày càng trầm trọng. Tôi xin chép lại dưới đây một đoạn
ngắn của thành quả việc làm của BCĐTU trong 5 năm nhìn lại:
<!>
…“Từ
khi thành lập đến nay, Ban Chỉ đạo đã đưa 68 vụ án, 57 vụ việc tham nhũng, kinh
tế nghiêm trọng, phức tạp vào diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, đến nay đã
kết thúc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm 40 vụ án/500 bị cáo với các mức án
nghiêm khắc, nhưng cũng rất nhân văn (10 bị cáo với 11 án tử hình, 19 bị cáo
với 20 án tù chung thân, 459 bị cáo tù có thời hạn từ 12 tháng đến 30 năm,…).
Tỷ
lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt trên 31%; việc kê biên, thu giữ tài sản trong
các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đạt trên 35 ngàn tỷ
đồng, điển hình như: vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP Đại Tín trên 10.000 tỷ
đồng, vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng (giai đoạn I) trên 6.000 tỷ
đồng, vụ AVG hơn 8.500 tỷ đồng, vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú
Thọ trên 1.400 tỷ đồng…”
Tôi
mới thử vào gú gờ (Google) trên mạng Internet với những từ khóa “đại án tham
nhũng” thì quả thật đó là những vụ án kinh khủng. Các độc giả có thể tìm thêm
rất nhiều chi tiết về những vụ đại án tham nhũng ở Việt Nam trong 20 năm qua
qua google như tôi. Tác giả bài viết chỉ ghi sơ vài dòng dưới đây để cho độc
giả thấy số tiền thất thoát qua các vụ tham nhũng này lớn như thế nào, độc giả
có thể tìm được chi tiết đầy đủ và chính xác hơn qua các báo trên mạng.
1-
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Viettinbank, Vietcombank: thất thoát 6,000 (sáu
ngàn) tỉ đồng VN, những người bị kết án là Đặng Thanh Bình, Phạm Nhật Hồng và
Nguyễn Ngọc Bích trong đó 2 người lãnh án tử hình (Phạm Nhật Hồng, Nguyễn Ngọc
Bích).
2-
Ngân hàng Việt Hoa: thất thoát 293 tỉ đồng VN và 84 triệu đồng US, các bị can
gồm có Trương Kiệt Tường, Trần Tuấn Tài, Nguyễn Văn Minh, Phùng Ngọc Lợi, Lô Ký
Ngươn và Nguyễn Hữu Thanh cùng 16 người khác, 4 người bị án chung thân.
3-
Ngân hàng Viettinbank: vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, thất thoát 4,911 tỉ đồng VN,
án chung thân.
4-
Ngân hàng Á Châu (Asia Commercial Bank hay ACB): thất thoát 1,700 tỉ đồng VN,
bị kết án gồm Nguyễn Đức Kiên (tức Bầu Kiên), Trần Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Hải
Yến, Lý Xuân Hải, 30 năm tù cho NĐK, 8 năm tù cho LXH, 2 tới 4 năm tù cho NTHY
và TNT.
5-
Ngân hàng Agribank: thất thoát 2,500 tỉ đồng, bị kết án Phan Thanh Tân (22 năm
tù), Phạm Thị Bích Lương (30 năm tù).
6-
Ngân hàng Xây dựng (VNCB): thất thoát 18,000 (mười tám ngàn) tỉ đồng VN, các bị
cáo Phạm Công Danh (30 năm tù), Phan Thành Mai (30 năm tù) và những người còn
lại từ 30 tháng đến 16 năm tù: Tạ Bá Long, Hà Tuấn Phước, Phạm Thế Tuân, Ngô
Văn Thanh, Lê Văn Thanh.
7-
Ngân hàng Sacombank: thất thoát 1,800 tỉ đồng VN, bị cáo Trầm Bê (4 năm tù),
Phan Huy Khang (3 năm tù), Phan Thành Mai (10 năm tù), Mai Hữu Khương (10 năm
tù), Nguyễn Quốc Viễn (5 năm tù) cộng thêm 18 bị cáo lãnh từ 2 đến 4 năm tù và
23 người lãnh án treo.
9-
Ngân hàng Oceanbank: thất thoát 1,500 tỉ đồng VN, các bị cáo Hà Văn Thắm (chung
thân), Nguyễn Xuân Sơn (tử hình), Nguyễn Thị Minh Thu (22 năm tù), Hứa Thị Phấn
(17 năm tù) và một số bị cáo khác (từ 36 tháng tới 8 năm tù).
10-
Ngân hàng Đại Tín: thất thoát hơn 15,600 tỉ đồng VN, các bị cáo Hứa Thị Phấn
(tổng cộng lên 30 năm tù), Bùi Thị Kim Loan (28 năm tù), Ngô Kim Huệ (10 năm
tù), Hoàng Văn Toàn (7 năm tù), Trần Sơn Nam (6 năm tù), Lâm Kim Dũng (6 năm
tù) cộng thêm 21 bị cáo khác với những án tù từ 20 tháng đến 7 năm tù).
+ Các công ty và tập đoàn các ngành xây dựng cầu đường,
ngành dầu khí, ngành hàng hải và ngành giao thông:
1-
Công ty Vinashin (TNHH - MTV): thất thoát 255 tỉ và 16 triệu USD, Trần Văn Liêm
(tử hình), Trần Văn Khương (chung thân), Giang Kim Đạt (tử hình), Giang Văn
Hiển (12 năm tù).
2-
Đại án PMU-18 trong đó có dự án cầu Bãi Cháy: chiếm đoạt 3.5 tỉ đồng, các bị
cáo Bùi Tiến Dũng (16 năm tù), Phạm Tiến Dũng, Đỗ Kim Quý và một số bị cáo khác
(nhiều năm tù), Thứ trưởng và Bộ trưởng Bộ GTVT Đào Đình Bình bị miễn nhiệm.
3-
Đại án PCI: thất thoát 4 tỉ đồng VN, Huỳnh Ngọc Sỹ (20 năm tù), liên quan đến
Ngân Hàng Nhật Bản JBIC.
4-
Đại án Vinashin: thất thoát 4 tỉ đô la US và 910 tỉ đồng VN, các bị cáo Phạm
Thanh Bình (20 năm tù), Trần Văn Liêm (19 năm tù), Tô Nghiêm (18 năm tù),
Nguyễn Văn Tuyên (16 năm tù), Trịnh Thị Hậu (14 năm tù), Hoàng Gia Hiệp (13 năm
tù), Trần Quang Vũ (11 năm tù), Đỗ Đình Côn (10 năm tù), Nguyễn Tuấn Dương (3
năm tù).
5-
Đại án Vinalines: thất thoát 525 tỉ đồng VN và chiếm đoạt 10 tỉ đồng VN, các bị
cáo Dương Chí Dũng (tử hình), Mai Văn Phúc (tử hình), Trần Hải Sơn (22 năm tù),
Trần Hữu Chiều (19 năm tù), cùng các đồng phạm Bùi Thị Bích Loan (4 năm tù),
Mai Văn Khang (7 năm tù), Lê Văn Dương (7 năm tù), và 8 năm tù cho mỗi bị can
Huỳnh Hữu Đức, Lê Văn Lừng và Lê Ngọc Triện. Ngoài ra còn có vụ án Vinalines
thứ nhì với các bị cáo khác như Bùi Quốc Anh (3 năm tù) cùng đồng phạm Ngô Văn
Nhuận, Đỗ Thị Bích Thủ, Nguyễn Thị Lệ Thủy và Hồ Ngọc Tùng (từ 2 đến 4 năm tù)
làm thất thoát 5 tỉ đồng VN.
6-
Vụ án công ty Falcon (Vinalines): chiếm đoạt tài sản lên đến 671 triệu đồng VN,
các bị cáo Đỗ Quốc Khánh, Bùi Văn Viện, Phạm Văn Đoàn, Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn
Thế Ngọc bị tòa tuyên án từ 2 đến 10 năm.
7-
Vụ án Trần Bắc Hà: thất thoát đến gần 4,700 tỉ đồng VN, bị can đã từng làm chủ
tịch HĐQT ngân hàng thương mại và đầu tư (BIDV), lớn thứ nhì sau Agribank,
trong 4 năm, cùng đồng phạm Trần Lục Lang, Kiều Đình Hòa và Lê Thị Vân Anh đang
đợi tòa xét xử.
8-
Vụ án Đinh La Thăng và vụ án Trịnh Xuân Thanh: Đinh La Thăng, cựu chủ tịch HĐQT
Dầu Khí VN (PVN) làm thất thoát 1,115 tỉ đồng lãnh 13 năm tù ở. Trịnh Xuân
Thanh chiếm đoạt 87 tỉ đồng, lãnh án chung thân.
9-
Vụ án Vũ “Nhôm”: thất thoát lên đến 3,700 tỉ đồng VN và chiếm đoạt tài sản lên
đến hàng chục triệu đô la US, Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ Nhôm) (25 năm tù ở), đồng
phạm Trần Phương Bình (20 năm tù), Nguyễn Thị Kim Xuyến (30 năm tù), Nguyễn Thị
Ái Lan (9 năm tù), một số bị cáo còn lại từ 2 năm đến 16 năm tù.
10-
“Củi” Tất Thành Cang: cũng sắp vào lò, xin độc giả theo dõi vụ án này có rất
nhiều gay cấn vì có thể ảnh hưởng đến những cựu bí thư và chủ tịch cũng như
những chủ tịch và bí thư đương nhiệm của UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
Cộng
sơ tất cả các thất thoát qua các vụ đại án lên đến con số khoảng 70,000 (bẩy
chục ngàn) tỉ đồng VN, tức là khoảng xấp xỉ 3 tỉ đồng đô la USD, một số tiền
khổng lồ về tham nhũng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Viết ra đầy đủ thì
số tiền này là 70,000,000,000,000 đồng VN, lớn khủng khiếp.
Chưa
kể đại án Vinashin, thất thoát 4 tỉ đô la Mỹ, tương đương 92,782 tỉ đồng VN và
910 tỉ. Tổng cộng số tiền thất thoát chỉ riêng trong vụ án Vinashin là 93,692
tỉ đồng VN.
BCĐTU
đã làm được một thành tích đáng kể trong việc “trừ sâu”, chúng ta hãy đọc tiếp
những thành quả của BCĐTU qua bài viết của ông Phan Đình Trạc: …“Trong 05 năm
qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật Đảng 77.662 (bẩy mươi
bẩy ngàn sáu trăm sáu mươi hai) đảng viên vi phạm, trong đó hơn 4,300 cán bộ,
đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái…”.
Những
bầy sâu tham nhũng thật nhiều và đa số là những đảng viên ĐCSVN có quyền lực.
Những bị cáo chính hầu hết là các “quan lớn” tức là những cựu chủ tịch và giám
đốc, những trưởng phòng, những lãnh đạo doanh nghiệp cũng như những nhân viên
kế toán và hành chính đầu não của các cơ quan, ngân hàng và các tập đoàn các
ngành. Họ là những nhân vật chóp bu của những cơ quan nơi việc tham nhũng xảy
ra. Họ là những người được giao quyền hạn lớn trong việc quản lý những túi tiền
và những ngân quỹ khổng lồ. Hành vi của họ chính là “hành vi của người lạm dụng
chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá
nhân”.
Đọc
và nghe những án tử hình được tuyên án trong các vụ xét xử thì thấy những “quan
chức” trẻ này (đa số ở tuổi trung bình khoảng 50 tuổi) thật là những người liều
lĩnh, không biết sợ. Họ coi Trời bằng vung. Số người trẻ ở những chức lãnh đạo
này đang làm ruỗng tình hình phát triển kinh tế Việt Nam. Như những đám cỏ dại
lan tràn làm hỏng một sân cỏ đẹp, như những bầy sâu (nhìn đâu cũng thấy sâu,
lời ông cựu Chủ tịch nước Trương Tấn Sang) đang lốn nhốn ăn mọt những cây trong
vườn cây đẹp và khỏe mạnh.
Trước
khi đi sâu vào vấn đề tham nhũng, tôi chép lại dưới đây một đoạn viết khá sâu
sắc tôi tìm được trên trang mạng của PCTN[5]:
…“Các
nghiên cứu về tham nhũng ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy tham
nhũng là hiện tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành
giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước và
các quyền lực công cộng khác. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ
khác nhau. Khi nhà nước và quyền lực chính trị còn tồn tại thì còn có điều kiện
để xảy ra tham nhũng.Cùng với sự phát triển của các hình thái nhà nước, đặc
biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ chính trị -
kinh tế tạo ra những tiền đề khách quan quan trọng làm cho tham nhũng phát
triển. Đối với mỗi cá nhân, nhu cầu về lợi ích là yếu tố chủ quan dẫn đến tham
nhũng. Khi yếu tố lợi ích kết hợp với sự lạm dụng quyền lực của những người có
chức vụ, quyền hạn thì khả năng xảy ra tham nhũng là rất cao…”
Hồi
đầu năm con rồng, năm 2012, lúc còn dạy học ở Phi Châu, tôi có viết một bài tản
mạn về tham nhũng[6] và lúc đó tôi tìm được hai định nghĩa của hai chữ tham
nhũng:
1-
Hai chữ “tham nhũng” được dịch là “lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và
lấy của” theo Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ Học ở Hà Nội xuất bản năm
1992.
2-
Theo từ điển Bách khoa Toàn thư của Wikipedia trên mạng thì Tổ chức Minh bạch
Quốc tế (MBQT, Transparency International - TI) định nghĩa tham nhũng là “hành
vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục
vụ cho lợi ích cá nhân”
Bản
khảo sát và báo cáo của PCTN xuất bản[4] dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Quốc tế
(World Bank) ghi lại định nghĩa tham nhũng qua 12 hành vi được tóm tắt dưới đây
(theo Luật Phòng chống Tham nhũng (PCTN) của nước CHXHCNVN ngày 29 tháng 11 năm
2005):
1.
Tham ô tài sản;
2.
Nhận hối lộ;
3.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
4.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
5.
Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
6.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi;
7.
Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;
8.
Người có chức vụ, quyền hạn đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ để giải quyết công
việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương để vụ lợi cho bản thân hoặc
cho người khác;
9. Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước vì vụ lợi;
10.
Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
11.
Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao vì mục đích vụ lợi;
12.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để bao che cho đối tượng có hành vi vi phạm
pháp luật vì mục đích vụ lợi; làm cản trở, can thiệp một cách trái pháp luật
vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
vì mục đích vụ lợi.
Trong
tất cả các hành vi tham nhũng (trừ 3 hành vi đầu là vụ lợi hiển nhiên), hai chữ
vụ lợi được nhắc đi nhắc lại như một mẫu số chung quan trọng trong 9 hành vi
còn lại. Hai chữ này cũng được định nghĩa rõ ràng trong luật PCTN như sau: “Vụ
lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt
được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng”.
Lợi
ích vật chất thì khá dễ hiểu, như là tiền của, tài sản, đất đai, nhà cửa, và
quà cáp dưới dạng vất chất. Còn lợi ích phi vật chất thì khó hiểu hơn, ta có
thể nghĩ đó là lợi ích về tinh thần hoặc gần đây nhất các báo trong nước lên
tiếng về việc hối lộ tình dục là một dạng hối lộ phi vật chất.
Nói
tóm tắt thì qua những vụ án tham nhũng hiện nay ở Việt Nam, chúng ta có thể tìm
được hầu như đa số những lợi ích vật chất đều đưa đến một chữ tiền. Tiền là một
phương tiện rất phổ thông trong hành vi tham nhũng. Trong báo cáo của PCTN[4],
danh sách 8 hành vi tham nhũng phổ thông nhất ở Việt Nam hiện nay đều nói đến
tiền và quà: 1. Cảnh sát giao thông (CSGT) nhận tiền và không xử phạt; 2. thẩm
phán nhận tiền và quà trước khi xét xử; 3 & 4 & 5. công chức các bộ
ngành nhận tiền và quà của cấp dưới và của doanh nghiệp; 6. giáo viên nhận quà
của sinh viên; 7. cơ quan quản lý nhận tiền; 8. những bác sĩ và y tá nhận tiền
của bệnh nhân…
Tuy
nhiên, số tiền liên quan đến những vụ hối lộ trong danh sách 8 hành vi phổ
thông kể trên không lớn lắm, có nghĩa là không đáng kể so với những vụ đại án
tham nhũng gần đây làm thất thoát hàng tỉ đồng Việt Nam như tôi đã trình bày ở
đầu trang. Bản khảo sát và báo cáo của PCTN không nói đến những đại án tham
nhũng ở Việt Nam. Một bản báo cáo như thế, theo tôi, không đầy đủ khi những
hành vi tham nhũng gây thất thoát cả ngàn tỉ đồng Việt Nam (VND) đang được xem
là quốc nạn và là một thách thức lớn đối với quá trình tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững của quốc gia.
Báo
cáo của PCTN (trang 65) đưa ra 16 ý kiến về nguyên nhân dẫn đến tham nhũng được
liệt kê dưới đây:
1.
Không xử lý nghiêm minh với người tham nhũng;
2.
Phẩm chất, đạo đức cán bộ suy thoái;
3.
Còn tình trạng “xin - cho”;
4.
Việc kiểm tra, giám soát người có chức quyền còn hạn chế;
5.
Thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp;
6.
Việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn còn thiếu chặt
chẽ;
7.
Quy định về quản lý vốn, tài sản công còn nhiều kẽ hở;
8. Không
có hoặc có rất ít vụ tham nhũng bị phát hiện;
9.
Tính minh bạch thông tin trong từng cơ quan chưa bảo đảm;
10.
Yếu kém trong đề bạt, bố trí xắp sếp cán bộ;
11.
Cán bộ nhận tiền quà biếu liên quan đến công vụ đã trở thành thói quen;
12.
Quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ thiếu chặt chẽ;
13.
Đưa quà tiền khi cần giải quyết công việc đã trở thành thói quen của người dân;
14.
Lương thấp;
15.
Do bè cánh, những ai không muốn tham nhũng sẽ bị loại ra;
16.
Có cơ hội mà không tham nhũng là dại.
16
ý kiến miêu tả được khá đầy đủ những điều kiện thuận lợi đưa đến một hành vi
tham nhũng trong nước CHXHCNVN. Nhìn kỹ và suy ngẫm về những điều kiện thuận
duyên này, chúng ta có thể đặt một câu hỏi: nhà nước đã quản lý như thế nào mà
trong 43 năm từ ngày “giải phóng” miền Nam, tham nhũng ngày càng trở nên trầm
trọng như thế? Cách quản lý của nhà nước đã tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho tham nhũng hoành hành. Và chúng ta có thể đi xa hơn trong cách lý luận và
kết luận như thế này được không: chính chế độ đã sinh ra và nuôi dưỡng tham
nhũng. Chế độ bảo toàn hệ thống (tức là cơ chế), hệ thống là môi trường (sân cỏ
đẹp hay rừng cây khỏe mạnh) cho tham nhũng (cỏ dại hay bầy sâu) phát sinh và
tăng trưởng.
Trong
quá khứ tác giả bài viết đã có những suy luận về 3 nguyên nhân khiến nhà nước
không thể chống tham nhũng tại Việt Nam[7]. Ba nguyên nhân này gồm có: (i) tính
độc lập của hệ thống luật pháp; (ii) sự sợ hãi của người dân và (iii) tự do báo
chí. Hệ thống luật pháp vừa không độc lập vừa lỏng lẻo. Người dân vì căn bệnh
sợ hãi đã ăn vào xương tủy thường im hơi lặng tiếng trước những hành vi tham
nhũng. Và báo chí thì hoàn toàn bị nhà nước kiểm soát.
Gần
đây, trang tài liệu của PCTN có một trang nói về nguyên nhân và điều kiện của
tham nhũng khá xúc tích và đầy đủ rất đáng xem (tài liệu[5] trong danh sách
tham khảo). Theo trang tài liệu này, những nguyên nhân và điều kiện cơ bản có
thể được tóm tắt dưới đây:
-
Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống
thấp, tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng nảy sinh và phát triển. Bên cạnh đó,
do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề cao quá
mức giá trị đồng tiền làm cho người sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa hoá
lợi nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong
kinh doanh.
-
Cơ chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán,việc
phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt quản lý nhà nước và
quản lý sản xuất, kinh doanh có phần chưa rõ. Quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản
lý tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước còn lỏng
lẻo.
-
Một số nét văn hoá như biếu và nhận quà tặng… bị lợi dụng để thực hiện hành vi
tham nhũng.
-
Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái, công tác quản
lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém.
-
Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin - cho” trong hoạt
động công vụ vẫn còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp
lý.
-
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng
ở một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; việc xử lý tham nhũng chưa
nghiêm.
-
Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham nhũng
chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu.
-
Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu.
-
Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng
báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa được quan tâm đúng mức.
Bản
tóm tắt này cho thấy rõ rệt lỗi hoàn toàn nơi hệ thống, nơi sự lãnh đạo của nhà
nước, từ việc giáo dục cán bộ và cách quản lý guồng máy hành chính cho đến hệ
thống pháp quyền hoàn toàn do nhà nước kiểm soát. Và chúng ta có thể kết luận
thêm lần nữa: tham nhũng hiện nay ở Việt Nam là sản phẩm của chế độ độc đảng
độc quyền.
Người
dân trong nước sống trong những hoàn cảnh và điều kiện sống ngày càng khó khăn.
Từ chất lượng giáo dục xuống cấp, giá cả sinh hoạt ngày càng tăng, an toàn thực
phẩm không bảo đảm, an ninh xã hội mỏng manh, thêm vào đó xã hội đầy dẫy những
bất an gây ra từ tai nạn xe cộ và ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng, chất
lượng y tế ngày càng thấp kém. Và đứng đầu trong các vấn đề xã hội nhức nhối là
tình trạng tham nhũng nghiêm trọng. Tham nhũng đã trở thành một thách thức lớn
đối với quá trình phát triển của Việt Nam.
Cách
hay nhất để giải quyết nạn tham nhũng là chúng ta từ bỏ chế độ cộng sản và
chuyển hướng đất nước đi về hướng dân chủ thật sự trong đó có tam quyền phân
lập. Dân chủ cũng phải bắt đầu cùng một lúc với giáo dục. Giáo dục nơi học
đường, giáo dục nơi gia đình, giáo dục nơi cách ứng xử của người dân với nhau,
nơi sự tử tế và tôn trọng nhân quyền của nhà nước lãnh đạo cho đến mọi thành
phần xã hội. Giáo dục tốt và nhân bản tạo ra con người tốt. Cơ chế tốt là mảnh
đất phì nhiêu cho những con người tốt được sinh sôi lớn mạnh. Nước Việt Nam từ
đó sẽ hùng mạnh và châm ngôn độc lập, tự do và hạnh phúc sẽ không còn là một
bánh vẽ.
Lấy
đi chế độ độc đảng độc quyền là một bước đầu quan trọng để giải quyết quốc nạn
tham nhũng hiện nay tại Việt Nam.
Mùa
Đông Yaoundé 2018
N.D.V.
_________
Danh sách tham khảo:
[4]
“Tham nhũng từ góc nhìn của dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức”,
kết quả khảo sát xã hội học, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, xuất bản lần thứ
hai, 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét