Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2019

Thời mạt Pháp, chùa là sàn giao dịch kinh doanh, sư là nhà kinh tế? - Trithuc.vn


Hơn 2.500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dự ngôn rằng, nhân loại sẽ đi vào thời mạt Pháp, nghĩa là con người không còn có Pháp trong tâm để ước thúc bản thân, điều gì cũng dám làm, điều xấu nào cũng dám phạm, dẫn đến đạo đức ngày càng suy đồi. Ngày nay, xã hội nhìn đâu cũng thấy hàng giả: thực phẩm giả, thuốc giả, điểm giả, học vị giả, lời giả, ý giả, và đến cả sư sãi cũng giả tu làm loạn Pháp, khiến chốn chùa chiền vốn là nơi tâm linh bình lặng cũng không tránh khỏi cạm bẫy “thương trường” của danh lợi tình…
<!>
Mời xem Kỳ trước

Khi “đi tu” ở chùa trở thành một nghề trong xã hội

Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của BCH TƯ Đảng (khóa IX) về “công tác tôn giáo”, đã xác định một đường lối mới về phương thức sinh hoạt tôn giáo trong xã hội: “… với chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết đồng bào tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới quê hương, đất nước. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được in ấn kinh sách, sửa sang, làm mới cơ sở thờ tự, tổ chức sinh hoạt bình thường…”
Ngay lập tức chùa chiền, kinh sách, tượng Phật, bảo tháp lớn kỷ lục… được dựng nên bằng tiền của các doanh nghiệp đầu tư, tiền từ các nhóm lợi ích đứng đằng sau với mục đích trục lợi, thu gom bất động sản. Không chỉ về mặt đầu tư vật chất sửa sang, làm mới chùa chiền, các nhà sư không chỉ học kinh kệ nhà Phật mà còn “đầu tư” học lý thuyết triết học Mác-Lênin.
Khi website của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM đăng thông báo về việc tuyển sinh thạc sĩ Phật học khóa 2 vào tháng 3/2017 với 3 môn thi gồm: Phật học, Triết học Phật giáo và Mác-Lênin, Ngoại ngữ (Anh văn hoặc Hoa văn) trình độ B, đã gây ra một cuộc tranh cãi trên mạng xã hội về việc có cần thiết đưa môn học của CNXH vào chương trình thi cử của một cơ sở đào tạo tôn giáo. Điều này đã đi quá xa giáo lý nguyên gốc của Phật giáo.
Thông báo chiêu sinh ban đầu của Học viện Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên sau khi bị phản ứng dữ dội đã được rút lại.
Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn là Thái tử Tất Đạt Đa của vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ tại Ấn Độ, sau khi Ngài xuất gia lại có vua Bình Sa muốn nhường lại vương vị, nhưng Thái tử Tất Đạt Đa đều không tiếp nhận mà vào trong rừng núi khổ tu. Có thể thấy ý nghĩa chân chính của Phật giáo không nằm ở sự phồn hoa của thế gian và chính trị của thế tục.
Nhưng hôm nay, với lý tưởng hiện đại hóa là “Đạo Pháp, Dân tộc, Xã hội chủ nghĩa”, thực tế đã xuất hiện những sư thầy có quan điểm giáo lý mang hơi hướng đời sống chính trị, chứ không còn giống một bậc tu hành theo chính giáo. Có sư thầy từng phát biểu tại Quốc hội: “Chúng ta phải xây dựng quân đội nước ta như quân đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên”. Lại có hòa thượng mới viên tịch từng nhận huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Nhiều nhà sư kiêm cả chính khách, tham gia vào những tổ chức, hiệp hội, đoàn thể…, giữ nhiều chức vụ như ủy viên này, đại biểu kia, trưởng ban nọ, chủ tịch kia… hoàn toàn đi ngược lại nguyên nghĩa xuất thế của Đức Phật, hoàn toàn không phù hợp với cách tu hành của Phật giáo mấy nghìn năm nay luôn phát nguyện xa rời thế tục, theo đuổi sự thăng hoa về tâm hồn và siêu thoát. Các chính Đạo đều coi trọng việc tu luyện loại bỏ nhân tâm, dục vọng, đề cao tâm tính làm căn bản. Các lễ nghi, chức tước, cấp bậc, tiền tài… chỉ làm nảy sinh thêm chấp trước vào vật chất. Những thứ hữu hình sẽ chỉ làm cho người xuất gia tập trung vào nó mà dần quên mất điều mình tin là Thần, Phật, chứ không phải là hình thức cấp bậc trong xã hội, tôn giáo. Người tu hành nếu chỉ toàn họp hành, hội nghị, tiếp khách thì không những không còn thời gian tham thiền nhập định, mà tâm cũng không tĩnh, khó có thể tinh tấn thanh tĩnh vô vi.
Tu hành trong Phật giáo, điều trước tiên được yêu cầu là cần phải ‘Giới’, giới cấm hết thảy dục vọng, không còn chấp trước vào vật chất, danh, lợi, tình. Người xuất gia muốn tu bỏ mọi dục vọng thì không thể truy cầu sự tiện lợi, an dật, ngồi trên ô tô mát lạnh, nghe kinh Phật online rồi đi khắp nơi làm lễ cầu siêu, lễ xông đất, lễ khai trương, khánh thánh, lễ trừ tà, giải hạn… để nhận “thù lao”. Các vị chân tu thời xưa và nay đều có một đặc điểm chung nổi bật là hạnh khiêm cung, lối sống tối giản về vật chất và không gian tu hành thanh tịnh… Không ai xài điện thoại sang, khoe dàn karaoke bạc triệu, đi xe tiền tỷ, không treo ảnh chụp chung với quan chức và cũng không trưng bằng chứng nhận “kỷ lục”…
Việc liên tiếp có những “siêu dự án” xây dựng chùa chiền, tổ chức những cuộc đại hội tôn giáo, đúc tượng Phật, in kinh sách… dường như đang gây ra một giả tượng về việc người dân ngày càng tín ngưỡng Phật Pháp. Điều này đã tạo ra một miền đất màu mỡ cho sự sùng bái tín ngưỡng tăng nhanh, gây ra sự hỗn loạn chưa từng thấy trong Phật giáo với những cơn bê bối rúng động liên tiếp xảy ra.
Hết hóa vàng, dâng sao giải hạn đến thỉnh vong báo oán, từ hòm công đức ‘không minh bạch’ cho đến xây chùa to để ‘buôn thần bán thánh’… Hết bậc hòa thượng nghiện ma túy tự tử đến gây gổ đập phá tài sản của “chúng sinh”, từ “nhà môi giới đất” cho đến lộ clip đồi trụy, gạ tình, ăn chơi, cờ bạc, trụ trì chùa nọ nói xấu trụ trì chùa kia, đến nỗi có người liên tưởng về sự suy đồi, mạt pháp của Phật giáo.
Trong những năm tại thế, đức Phật Thích Ca dẫn dắt hàng ngàn tăng chúng tu luyện. Đó là tăng đoàn, tiền thân của tôn giáo sau này. Mục tiêu của tu hành trong Phật giáo là giác ngộ giải thoát, coi các thứ dính mắc vào trần tục là chấp trước, là ràng buộc, là những gì cần phải buông bỏ đi. Người tu hành hướng đến giác ngộ giải thoát, tránh xa việc hưởng thụ danh lợi hay sắc tình của thế gian. Bằng vào giáo lý uyên thâm, phương pháp tu luyện thực sự có thể giúp đạo đức nâng cao, mà Phật giáo qua những năm tháng lịch sử đã phát triển khắp hoàn cầu, trở thành một trong những tôn giáo có ảnh hưởng nhất thế giới.
Là một tôn giáo toàn cầu, mục tiêu tối hậu là tu hành xuất thế, Phật giáo truyền thống vốn dĩ không bó buộc theo một thể chế chính trị hay dân tộc hoặc địa phương nào. Càng không thể là cơ sở phát triển kinh doanh. Ít nhất về tư tưởng cốt lõi thì là như vậy. Xét cho cùng, tôn giáo là phương tiện để tu hành, chứ không phải phương tiện để đạt được mục đích nào đó khác.
Tuy nhiên, vì sự thành công của Phật giáo, vì sức ảnh hưởng của tư tưởng nhà Phật trong lòng dân chúng, cho nên dần dần có một số người sử dụng tôn giáo vào mục đích khác với mục đích nguyên gốc của nó.
Điều này dường như cũng đã được dự báo trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Trường Thọ, có đoạn viết:
Ví như nhà trưởng giả kia có nuôi nhiều bò, màu lông khác nhau, đồng chung một bầy. Trưởng giả giao bầy bò cho người chăn thả đi ăn cỏ uống nước, chỉ vì vị đề-hồ (một món bổ dưỡng chữa bách bệnh) chớ chẳng cầu sữa bơ. Người chăn ấy vắt sữa rồi tự uống. Trưởng giả chết, bao nhiêu bò đều bị bọn cướp đoạt cả. Bọn cướp tự vắt sữa ra uống, rồi bàn với nhau rằng ông Trưởng giả nuôi bầy bò này chỉ muốn đặng vị đề-hồ chớ không cầu sữa bơ. Chúng ta làm cách gì để đặng đề-hồ. Đề-hồ là phẩm vật quý nhất trong đời. Chúng ta không có gì đựng, dầu vắt được sữa cũng không chỗ chứa. Chúng lại bàn đựng sữa trong túi da. Dầu có đồ đựng nhưng vì không biết cách làm, nên bơ còn không được thành, huống là đề-hồ. Vì muốn được đề-hồ, bọn cướp đổ thêm nước vào túi sữa, vì quá nhiều nước nên chẳng những không được đề-hồ, bơ, mà cả sữa cũng mất. […]
Như vua Chuyển-Luân ra đời, do sức phước đức của vua nên bọn cướp tan vỡ, bầy bò vẫn còn nguyên vẹn. Nhà vua bèn giao bầy bò cho người chăn rành nghề, do đó mà được đề-hồ, và nhờ đề-hồ mà nhân dân khỏi bệnh khổ.
Hiện giờ không phải đang như vậy sao? Nếu thêm cả ‘chủ nghĩa nào đó’, hay những thứ khác vào Phật Pháp thì có phải là thêm nước vào sữa hay không? Sữa loãng còn chẳng có, huống là đề-hồ! Chỉ có nước hương sữa thôi. Nước hương sữa thì không tu được, không cứu được người, nhưng mà bán được tiền! Dán nhãn đề-hồ lên mà bán, thì càng được nhiều tiền! Câu chuyện ngụ ngôn về đàn bò bị sử dụng sai mục đích nguyên gốc phải chăng chính là đang nói về tình huống hiện nay?
Rất nhiều giới luật đã không còn như trước, hòa thượng tu hành cũng chia cấp bậc, chức danh… cũng có hình thức kỷ luật, khen thưởng, khai trừ… đem hình thức bề ngoài của thời kỳ Phật giáo mạt pháp duy trì, coi chùa như công sở, đi làm lĩnh lương, có tài khoản riêng, gửi tiền về nhà, mua nhà, sửa sang nhà cửa cho gia quyến… Đem so với những điều được viết ra cách đây 2.000 năm, và những lời được cho là của Đức Phật nói cách đây 2.500 năm, biết bao điều đã và đang thành sự thật.

Thời mạt Pháp, xuất hiện nhiều sư sãi suy đồi 

Trong tác phẩm kinh điển của Phật gia “Phật thuyết pháp diệt tận kinh” có đoạn viết:
“Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục , ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau. […]
Vào lúc đó các ác ma tỷ-khưu sẽ buôn bán nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở thành các tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu phai dần. Những người chạy trốn luật pháp sẽ tìm đến quy y trong đạo của ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật, không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ . Chẳng bao lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt. Cho dù vẫn còn có người tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn. vẫn khăng khăng cho họ là đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiế ng , ra vẻ tao nhã để mong cúng dường.
Khi mạng căn của các ma ác tỷ-khưu này chấm dứt, thần thức của họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng.”
So với hiện trạng hôm nay thì thế nào? Ngay cả những hòa thượng chức vị rất cao trong hệ thống Phật giáo thì sao?
Đại đức Thích Thanh Mão, trụ trì chùa Phú Thị (huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên) là người xuất gia tu hành nhưng có nhiều “đam mê” như mê văn nghệ ca hát, khoe dàn karaoke 450 triệu đồng, mê uống rượu. Thầy khoe uống “nửa lít một bữa nếu ngon miệng và có anh em đông vui”, “uống rượu thì sai thật nhưng thanh niên mà không uống rượu thì chán lắm”. Thầy còn mê tốc độ, mê Internet. Thầy còn làm kinh tế, thu gom cây cảnh đem lên Hà Nội bán. Khi được PV hỏi “như vậy có vi phạm các điều quy định của giáo lý nhà Phật không ạ?”, sư Mão trả lời: “Chúng tôi được quyền đi buôn, được quyền làm đủ mọi thứ, chúng tôi làm đúng quyền công dân của tôi. Tôi là công dân đặc biệt mặc áo nâu đi ở chùa thôi”.
Sư Thích Minh Thịnh, trụ trì chùa Nhạn Tháp (tỉnh Hưng Yên), một trong hai nhân vật chính của loạt phóng sự trên báo Lao Động: “Trụ trì uống rượu tây, nhắm tiết canh!”, không những ăn thịt, uống rượu, nhắm tiết canh mà còn văng tục chửi thề, thậm chí còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với kỳ phùng địch thủ là sư Thích Thanh Mão ở chùa kế bên. Việc “đấu khẩu” nói xấu nhau không còn là chuyện lạ, nhưng hai vị sư này còn chuyển sang màn “đấu đầu” đầy đao kiếm giang hồ giữa thanh thiên bạch nhật trước sự chứng kiến của nhiều người địa phương.
Sư Thích Minh Thịnh
Đại đức Thích Thanh Cường, Trưởng ban trị sự Phật giáo huyện Tứ Kỳ (tỉnh Hải Dương), trụ trì chùa Cương Xá sở hữu 3 trang Facebook, trong đó hai trang thường được thầy dùng post ảnh “tự sướng” với những cảnh xa hoa, lệch lạc: khoe siêu xe, điện thoại sang, mặc quần áo rằn ri cầm súng phản cảm, chơi tenis, tổ chức sinh nhật hoành tráng, cười phớ lớ bên bàn thức ăn mặn ngồn ngộn, ảnh chụp với… trai đẹp. Đại đức Thích Thanh Cường giữ nhiều chức vụ trong chính quyền cũng như Giáo hội Phật giáo tỉnh Hải Dương, đồng thời cũng là Phó hiệu trưởng Trung cấp Phật học Hải Dương, là ủy viên Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, từng đóng góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Sư thầy này gây “bão” mạng với clip đập hộp iPhone 6, sở hữu điện thoại Vertu trị giá 600 triệu đồng. Đây là những lời giải thích của sư thầy: “Hôm đó khi mới nhập điện thoại iPhone 6 về thì chủ cửa hàng ở TP Hải Dương mời tôi đến và bảo rằng thầy cứ sờ vào điện thoại, rồi thầy khui cho con có lộc…
Về phần tôi, hiện tại tôi thường đi cúng, làm lễ cho các cửa hàng kinh doanh ở TP Hải Dương. Khi làm xong người ta có bồi dưỡng cho tôi chút tiền. Đấy là tiền do công sức tôi bỏ ra và đó là nguồn tiền để tôi mua đồ dùng cá nhân, chứ có lấy tiền của chùa đâu…”.
Sư Thích Pháp Định tại chùa Gia Hưng (xã Thạnh Ngãi, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre), “nổi tiếng” với màn “khóa môi” với ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng trong một cuộc đấu giá chai rượu tây trị giá 50 triệu đồng. Nhà sư này cũng bị “tố” có lối sống “nhập thế” kinh hoàng, như lên mạng chat tìm bạn tình, đi bar, đi “thư giãn” ở Spa đồng tính… Khi xem những hình ảnh “hậu trường” sau tấm áo cà sa của nhà sư này, có khi nào khiến ta hồ nghi rằng chúng ta đang quá khắt khe với các nhà tu hành? Hay thực tế, một bộ phận sư thầy vào thời mạt Pháp, đạo đức thậm chí chẳng nâng cao lên mà còn tệ hơn cả người bình thường?
Sư Thích Pháp Định tại chùa Gia Hưng
Nếu chỉ nhìn những bức ảnh này hay xem clip, không ai có thể tưởng tượng nổi đây là một người xuất gia tu hành với các hành vi hung hãn và ngôn từ thô tục như giới giang hồ. Đầu đội mũ phớt, mặc áo thun quần short, đeo dây chuyền và kính đen, tay cầm ba tong đập vỡ kính cửa xe và gương chiếu hậu ôtô mà miệng liên tục chửi rủa đòi dọa giết và bắt lái xe phải xin lỗi. Đó là, sư thầy Thích Minh Truyền, 31 tuổi, đã tu 10 năm tại chùa Sắc Tứ Khải Đoan (tỉnh Đắk Lắk).
Sư thầy Thích Minh Truyền
Đại đức Thích Thanh Huy, 40 tuổi, trụ trì chùa Quang Minh (huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) treo cổ tự tử tại phòng riêng trong chùa. Khám nghiệm tử thi cho thấy trên người vị sư này có hình xăm đàn ong, bướm trên đùi. Người dân bàn tán không ngớt về cái chết và đời sống trụy lạc của sư thầy. Phó trưởng Công an huyện Nam Sách xác nhận sư thầy tự tử vì bị nghiện ma túy và nợ nần chồng chất. Không chỉ nghiện ngập, vị sư này còn biến nhà chùa thành nơi hút chích ma túy. Trước ngày phát hiện sư Huy tự tử, khoảng 6 gia đình kéo đến chùa tìm con, họ phát hiện con em họ đã dùng ma túy đá trong phòng riêng của sư Huy.
Sư Thích Minh Phượng, Trụ trì chùa Chàng Sơn (huyện Thạch Thất, Hà Nội) tự ý ném bức tượng cổ xuống sông rồi mang một bức tượng đúc bằng đồng có khuôn mặt giống mình về thờ cúng tại chùa. Người dân địa phương còn “tố” sư lộng quyền, sống buông thả, thậm chí đánh dân… và bức xúc cho hay: “Mỗi một người chết nếu muốn đưa vào chùa đều phải trả phí cho nhà sư này khoảng 5 – 6 triệu. Nếu không có tiền ấy, sư tỏ ra rất khó chịu và không ít lần nói những lời thiếu văn hóa”. Cuộc sống của người tu hành là khổ hạnh, thanh đạm, nhưng sư thầy này lại xây nhà tắm có hình người phụ nữ hở hang trong khuôn viên chùa. Trong khi chùa Chân Long xuống cấp trầm trọng, vị sư này vẫn sắm ô tô, chặt cây cổ thụ, dỡ bỏ biển di tích chùa Chân Long để xây gara ô tô hoành tráng.
Sư Thích Minh Phượng
Đại đức Thích Nguyện Đạo, 30 tuổi, trụ trì chùa An Mô (huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) đã đưa một cô gái tiếp viên của một hãng bia vào phòng riêng và bị người dân địa phương phát hiện. Vị sư này tắt điện, đóng hết cửa, yêu cầu người dân ra về để sáng mai thầy tụng kinh sớm. Bức xúc, người dân đã tập trung tới chùa, cùng sự chứng kiến của đại diện Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Trị và các ngành chức năng địa phương, vị sư và cô gái trẻ thừa nhận có nằm trên giường nắm tay nhau nhưng không “ôm ấp” gì.
(Cô gái qua đêm trong chùa được chính quyền địa phương giải thoát khỏi vòng vây của người dân.)
Sư Kim So Phia, 24 tuổi, tu hành đã được 9 năm tại chùa Săm-Rông-Ết (tỉnh Trà Vinh), là một người xuất gia tu hành nhưng lại vướng vào chuyện ái tình nam nữ, phải nhận bản án tù chung thân về tội “Giết người” và “Cướp tài sản”. Vì đã trót mang thai với Phia và thấy thầy tu lại tỏ ra lạnh nhạt với mình nên cô gái nhiều lần lên chùa tìm gặp người yêu nhằm làm rõ trắng đen. Trong một lần cô gái tới chùa nói chuyện với người yêu, giữa 2 người đã xảy ra mâu thuẫn cãi vã. Trong cơn cuồng nộ, Phia đã dùng tay siết cổ người yêu cho đến khi cô gái tắt thở và giấu xác ngay trong khuôn viên chùa.
Sư Kim So Phia
Kinh ngạc bao nhiêu từ sự chính xác trong dự ngôn của Phật Thích Ca Mâu Ni, thì chúng ta càng lo lắng bấy nhiêu. Tất cả đã trở thành sự thật trong thời Mạt Pháp. Chùa chiền biến thành nơi của kẻ buôn bán đầu cơ, chúng sinh tham tiền tài vật chất không tu đức chân chính. Tăng ni trong chùa đã có những kẻ không chỉ vô đạo mà còn dâm dục phóng túng. Lại cũng có người trở thành thầy tu mà không chân tu, nhưng tự cao tự đại, hám danh tiếng mà làm ra những trò hư ngụy. Những người khoác áo Phật gia nhưng không chân tu đã làm diện mạo Phật Pháp bị hoen ố, khó lý giải và trở thành dị đoan trong mắt người đời.
Tín ngưỡng vốn là sợi dây giúp phân rõ lằn ranh tốt xấu trong hành xử đạo đức của con người. Vì vậy, khiến con người mất niềm tin vào tín ngưỡng cũng chính là đẩy họ trượt nhanh hơn vào sự sa đọa đạo đức vì không còn điều gì câu thúc. Từ cổ chí kim, người Việt đã có truyền thống thờ Thần bái Phật, những người tới chùa thắp hương cầu nguyện đều tin rằng những điều không như ý hiện giờ họ gặp phải chính là do nhân quả báo ứng gây nên, cung kính sám hối, cầu nguyện tương lai làm nhiều việc tốt để bù đắp lại, hy vọng Thần Phật thương tình ban cho chút thuận lợi nhất thời, giải thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn trước mắt.
Những ngụy nhân sỹ tôn giáo khoác áo cà sa lại làm sai lệch ý nghĩa, biến việc khấn Thần bái Phật thành việc bố thí tiền tài, gieo quan niệm rằng cúng dường là có thể được bảo hộ mà hoàn toàn không quan tâm xem những đồng tiền đó có phải là tiền thiện lương hay từ phường trộm cướp, xã hội đen, hay tiền tham ô từ những quan chức hủ hóa. Lúc này cầu Thần bái Phật, từ “sám hối” lại trở thành dùng tiền mua chuộc Phật, làm giao dịch với Phật. Câu chuyện chùa Ba Vàng chỉ là một trong những nơi đang lạm dụng mê tín, đi ngược lại tinh thần Phật giáo chính tông, phụng sự cho thế quyền và mua bán tín ngưỡng.
Báo Lao Động có bài viết “Truyền bá chuyện vong báo oán, chùa Ba Vàng mỗi năm thu trăm tỉ”, phản ánh tại chùa Ba Vàng (TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) có hoạt động gọi vong. Ai muốn thoát nạn thì phải “trả nợ” cho vong từ vài triệu đến hàng chục triệu đồng thông qua hình thức công đức vào nhà chùa. Theo phản ánh từ bài viết, với những xui xẻo, bệnh tật trong cuộc sống, người dân đến chùa được ‘vong’ phán rồi ‘chốt giá’. Đại đức Thích Trúc Thái Minh, trụ trì chùa Ba Vàng tổ chức buổi nói chuyện trước hàng trăm Phật tử, phát trực tiếp trên Facebook hôm 21/3/2019 rằng việc tổ chức lễ oan gia trái chủ ở chùa là có thật. Việc các phật tử tham gia là tự nguyện và việc cúng tiền không phải do nhà chùa yêu cầu mà do Phật tử tự nguyện cúng dường Tam Bảo và theo yêu cầu của ‘vong’.
Từ một ngôi chùa giá trị chỉ vài tỷ doanh thu theo kiểu làm việc, cung cấp các dịch vụ xã hội thì gần đây doanh thu của chùa Ba Vàng lên tới gần 500 tỷ. Người ta nói Đại đức Thích Trúc Thái Minh – vốn là một giảng viên về kinh tế thì chuyển vào làm trụ trì chùa – đã “mát tay” marketing tốt nên chùa Ba Vàng trở thành trung tâm kinh doanh tâm linh thu lợi, thu hút khách thập phương, biến nơi đây không phải là chốn tu tập mà là để nhận tiền cúng dường, trục vong, chữa bệnh…
Đại đức Thích Trúc Thái Minh nói: “Càng nghèo càng phải cúng dường để thoát nghèo!” (chụp màn hình Báo Lao Động)

Bất kỳ nguyên lý ngụy tôn giáo nào tháo xích cho dục vọng, khiến người ta tham lam, cúng bái cầu tiền tài danh vọng và sẵn sàng làm điều gì cốt là tốt cho mình mà không cần nghĩ tới người khác, thì đó liệu có phải là chính Đạo, chính Pháp?

Khi Tiền tài không loại trừ bất kỳ ai

Buôn thần bán thánh là câu chuyện nhiều kỳ chưa có hồi kết. Biểu hiện rõ rệt nhất là mức độ tận thu mọi thứ ở chốn linh thiêng, biến chùa chiền thành một nơi để thu tiền một cách tự nguyện. Tại nhiều chùa lớn, các hòm công đức nhiều quá… mức cho phép, thậm chí khắp ban thờ Phật còn tận dụng cả khay đĩa để đựng tiền.
Dúi tiền vào cả tay tượng Phật
Nhiều người đã đặt câu hỏi với những siêu dự án tâm linh do tư nhân đổ tiền đầu tư xây dựng, quỹ đất sử dụng như thế nào, tiền đầu tư xây dựng là của tư nhân hay của Nhà nước? Lợi nhuận từ việc kinh doanh khai thác chùa quản lý thế nào. Chùa chiền không bị kiểm toán, vậy tiền thu hằng năm có công khai minh bạch hay không?
Trở lại với câu chuyện Đại đức Thích Thanh Toàn và chùa Địa Ngục, sau khi được Giáo hội Phật giáo chấp thuận cho xả giới hoàn tục vì bị cáo buộc “gạ tình’, vị sư này đã công khai với báo chí ông có khối tài sản khoảng 200-300 tỷ đồng gồm tiền, vàng, xe, nhà đất, trang trại… Vị trụ trì này cũng từng bị cáo buộc có liên quan đến tập đoàn Sun Group trong việc lấy đất rừng xây chùa ở Tam Đảo.
Tại cuộc họp chiều 5/10, ông Thích Thanh Toàn gửi tờ trình đến Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc xin xả giới, hoàn tục. Suốt phiên giải trình, sư Toàn luôn miệng nói: “Con xin chịu hết, xin các ngài cứ làm cái gì tốt nhất cho Giáo hội, cho Đạo pháp..”, nhưng sư Toàn sau cùng mong muốn được giữ lại tài sản cá nhân của mình: “… Nhưng bây giờ, con xin quý ngài là trang trại con quá lớn, tượng pháp quá lớn. Bây giờ mình bán cho ai và chuyển như thế nào? Thế thôi! Con cũng có nhiều chỗ ở chứ không phải một chỗ.
Còn chùa 800m2 đấy thì con vui vẻ, các ngài sao cũng được, nhưng bây giờ cái tài sản của con là con nguyện, con mua, con không làm gì cả, chỉ làm để nuôi các cháu ăn học, các người trong bệnh viện. Con xin các ngài giúp cho con cái đấy thôi. Nếu tính tài sản thì khoảng 2-300 tỷ đấy, con xin các ngài!…”
Trụ trì chùa Nga Hoàng cũng không ngần ngại bày tỏ quan điểm cá nhân về việc bị “tố” gạ tình: “Tất cả đều là cạm bẫy, nếu mình tránh cạm bẫy này thì sẽ có cạm bẫy khác, con sẽ nguyện đời đời hộ Pháp… nhưng không sao cả, mình làm mình chịu. Đàn ông không sợ. Nếu muốn lấy vợ thì vẫn lấy vợ thoải mái, không sợ gì cả. Ăn chơi thoải mái, không sợ gì cả. Mặc cái áo y cà sa này, họ mới ‘chơi’, còn bình thường thì không ai nói được. Con nói mình thanh niên mà sợ gì. Không bất cứ thế lực nào mà sợ cả”.
Người xuất gia tu hành vào chùa, gia tài mỗi người chỉ được phép có ba bộ cà sa và một bình bát để khất thực. Y bát tượng trưng cho những gì nghèo nàn, đơn sơ và khiêm nhường nhất. Đi tu mà coi việc khoác cà-sa gõ mõ là nghề nghiệp mưu sinh thì ắt sẽ giả tu để cầu được tài phú, không phải chân tu, phá hoại giáo pháp.
Từ trường hợp sư Thích Thanh Toàn, sau hơn 10 năm trụ trì chùa Nga Hoàng (10/2008), vì vi phạm giới luật mà phải xin hoàn tục, lại có khối tài sản 200-300 tỷ thì nhìn rộng ra giới tu hành, người ta hoài nghi và đặt câu hỏi về con đường tu hành của nhiều nhà sư hiện nay. Với số tiền lớn thế, sư thầy lấy ở đâu? Vào chùa chỉ có y bát và hai bàn tay trắng mà hoàn tục lại sở hữu một khoản tiền cực lớn, thế thì phải chăng Giáo hội Phật là nơi để kiếm tiền? Về việc này, nhiều người cho rằng, khối tài sản lớn mà Đại đức Thích Thanh Toàn có được là từ việc Phật tử cúng dường công đức cho nhà chùa.
Đã từ lâu, câu chuyện tiền công đức, cúng dường, thu phí… tại các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đã gây ra nhiều tranh luận. Hầu hết các quy định pháp luật về quản lý, sử dụng tiền của các tổ chức tôn giáo đều chung chung kiểu “phải công khai”, “rõ ràng”, “minh bạch”, mang tính liệt kê, không đi kèm chứng từ, chế tài… bởi vậy mới xảy ra nhiều chuyện rúng động tại các chùa lớn, có tiếng như vừa qua.
Nếu chùa Ba Vàng “nổi tiếng” về việc áp vong, giải vong, mỗi năm thu hàng trăm tỷ đồng doanh thu thì chùa Phúc Khánh – một ngôi chùa nổi tiếng tại Hà Nội vào mỗi dịp đầu năm, cũng có hàng ngàn người “ghi danh” nộp phí để được chùa cúng sao, giải hạn. Khoan không bàn tới việc cúng sao giải hạn này có hay không trong giáo lý của Đạo Phật, mà chỉ kể đến việc nhà chùa này đã tận thu bao nhiêu tiền sau mỗi khóa lễ đó. Và nguồn tiền đó đi đâu về đâu, ai quản lý và sử dụng như thế nào thì chắc chỉ có Ban trị sự nhà chùa mới biết được.
Theo báo Lao động (19/2/2019), sau khi bài viết “Bị từ chối giải hạn vì “thiếu lễ” 50 nghìn đồng” gây “bão” mạng, sư thầy Thích Minh Đức, thay mặt cho Thượng tọa Thích Thanh Quyết – trụ trì của chùa Phúc Khánh đồng thời là Phó Chủ tịch Hội đồng Trị Sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam trả lời: “Việc thu tiền lễ dâng sao giải hạn có từ hàng chục năm nay và tôi là người kế tục toàn bộ các công việc của các vị tiền tổ để lại. 150.000 đồng là tiền phục vụ, giấy sớ, dầu đèn cho Phật tử trong 12 tháng trong một năm. 150.000 đồng chia cho 12 tháng, có năm có cả những tháng nhuận. Tính ra như vậy là cũng rất ‘hạ’ rồi.”. Buồn thay, ở một nơi tôn nghiêm và lánh xa bụi trần như nhà chùa, vị đại đức này cũng có ngôn từ kiểu mặc cả, ra giá. Chỉ có buôn thần bán thánh mới tính toán tăng giá hạ giá và lợi dụng chốn tâm linh để quy mọi thứ ra tiền.
Sư Thích Minh Đức cũng cho biết “không nắm rõ số lượng người đăng ký dâng sao giải hạn mỗi năm” và nhà chùa “nhờ các Phật tử chấp pháp thu hộ, sau đó nội bộ nhà chùa sẽ tự kiểm đếm và quản lý” nhưng không công bố số tiền thu được. Là người phụ trách toàn bộ công việc tại chùa Phúc Khánh, sư Thích Minh Đức không biết số lượng người đăng ký, số tiền thu được, sử dụng vào việc gì là vô lý.
Cũng theo báo Lao Động, 150.000đ là khoản phí dâng sao giải hạn, còn nếu ai muốn “cầu an” cho gia đình sau đó thì lại phải chi thêm 150.000đ nữa; nhà chùa có những “gói dịch vụ” hẳn hoi theo nhu cầu của “khách hàng”. Với hàng ngàn người lấp kín sân chùa, tràn kín lòng đường xì xụp khấn vái, vái vọng cả từ bên trong và bên ngoài chùa Phúc Khánh trong lễ dâng sao giải hạn vào mỗi 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm, người ta có thể tính sơ được số tiền nhà chùa thu được về là bao nhiêu sau mỗi khóa lễ đó.
Trước đó, trong bài phát biểu sáng ngày 27/10/2018, Thượng tọa Thích Thanh Quyết, thuộc đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh đã “thắc mắc” về việc “chính quyền thích tham gia quản lý tiền công đức của nhà chùa: “… Một số số địa phương đánh đồng quản lý tôn giáo với quản lý tín ngưỡng, quản lý di tích lịch sử với quản lý tín ngưỡng, đã đưa ra những cách làm ko đúng với luật pháp, tạo nên sự bức xúc ko đáng có, có những phản ứng tiêu cực, … mất đoàn kết giữa các cán bộ địa phương và các chức sắc trong tôn giáo, cụ thể là: chính quyền thích tham gia vào việc quản lý tiền công đức của nhà chùa, tiền công đức là do các chức sắc trong tôn giáo tu tâm dưỡng tính thanh tịnh mà tín đồ cảm kích dâng tam bảo, dùng để xây dựng cơ sở tôn giáo, đào tạo chức sắc, từ thiện xã hội phát triển tôn giáo để nuôi sống bản thân, tại sao chính quyền ko quản lý tài chính của các tôn giáo khác cho nó bình đẳng mà chỉ quản lý tài chính của phật giáo. Có tu đâu mà quản lý tiền chùa. Nếu kẻ xấu mà lợi dụng khe hở này thì ai chịu trách nhiệm.”
Thượng tọa Thích Thanh Quyết phát biểu: “Có tu đâu mà quản lý tiền chùa”
Dĩ nhiên vẫn còn có những ngôi chùa và tăng ni chân tu Phật Pháp, vẫn có thể giữ vững bản thân trước  những cám dỗ của danh lợi tình, quyết duy hộ Phật Pháp chân chính không chịu bị cải biến theo định hướng. Tuy nhiên, trước quá nhiều những thực tế về các sư tăng tha hóa diễn ra trong xã hội Việt Nam gần đây, người ta không khỏi hoang mang tự vấn về những lời tiên tri về thời mạt Pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni và khuyến cáo lẫn nhau không chỉ nên là “người tiêu dùng thông minh” mà còn là “người có tín ngưỡng thông minh” để không sa vào bẫy của những tăng sư giả tu loạn Pháp này.
Mạnh Cường
Xem thêm:
trithuc.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét