Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2019

Khái niệm về DÂN CHỦ - Đỗ Hữu Long

Hình ảnh có liên quan
Dân chủ là một hình thức chính quyền, một lối sống, một mụ̣c tiêu, một lý tưởng. Dân chủ có nghiã đơn giản là do người dân cai trị. Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln mô tả chính quyền tự quản như thế là chính quyền cuả dân, do dân, vì dân (government of the people, by the people,for the people).Dân chủ, chế độ chính trị được hình thành từ Nhả Điển  (Athene), Hy Lạp vào khoản 600 TCN. Từ ngữ Dân Chủ  DEMOCRACY  theo nghiã Hy Lạp, Demos là nhân dân (people) và Kratos là chính quyền (authority). Xả hội cổ thời La Mã cũng kinh qua dân chủ. Cicero ̣(106 TCN - 43 TCN), một triết gia, mộ̣t chính trị gia, một luật gia hùng biện đã nêu lên ý tưởng rằng con người có những quyền tự nhiên (natural rights) mà bất cứ quốc gia nào cũng phải tôn trọng.<!>
Chế độ dân chủ tiếp tục phát triển mang những hình thái khác nhau theo thời gian và không gian, tuy nhiên những đặc tính căn bản đều giống nhau trong những quốc gia dân chủ.

NHỮNG YẾU TỐ CĂN BẢN CUẢ DÂN CHỦ

1/ Tự Do Bày Tỏ (Freedom of Expression) . Tu Chính Án Thứ Nhất bảo đảm quyền tự do bày tỏ, được hiểu rằng chính quyền không được ngăn cấm người dân nói lên, viết ra những điều họ yêu thích trong giới hạn không làm tổn thương đến nhân cách, tiếng tăm cuả người khác qua những viện dẫn giả dối, gian trá. Công dân cuả một chế độ dân chủ chọn lựa người lảnh đạo là người đại diện thật sự của quần chúng, ảnh hưởng đến chính sách cuả chính quyền, vì vậy cần đến sự thảo luận, trao đổi ý kiến để hiểu biết đầy đủ những vấn đề công ích. Nếu có những hiểu lầm hoặc lập trường khác nhau, chính quyền phải giải thích thoả đáng hoặc nếu muốn chuyển đổi ý kiến dân chúng phải thi hành bằng những phương cách nhẹ nhàng, giới hạn. Trong việc tiìm kiếm bảo vệ ý kiến cuả mình, chính quyền phải luôn luôn tôn trọng quyền bày tỏ cuả người khác. Nhằm khuyến khích sự trao đổi tư tưởng, thể chế dân chủ phải bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và thỉnh nguyện thư .

2/ Tự Do Bầu Cử. Tự do bầu cử cho người dân cơ hội chọn lựa những người lảnh đạo và bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề khác nhau. Những cuộc bầu cử được tổ chức định kỳ để bảo đảm những viên chức đắc cử trung thành với chính sách, đường lối hứa hẹn khi tranh cử. Hầu hết các quốc gia dân chủ đều dành những điều kiện ph́ap lý giản dị cho tư cách cử tri và ứng cử viên, thường chỉ gồm các hạng mục về mức tuổi, tình trạng cư trú, quyền công dân. Tự do bầu cử cũng được bảo đảm bằng những biện pháp : bỏ phiếu trong phòng kín, cử tri không bị cưỡng ép hoặc mua chuộc, kết quả bầu cử hoàn tòan chính xác không liên hệ đến bất cứ sự gian trá nào.

3/ Nguyên Tắc Đa Số và Quyền Thiểu Số  (Majority Rule and Minority Rights). Những quyết định trong một xả hội dân chủ được lập nên do nguyên tắc đa số. Tuy nhiên, những quốc gia dân chủ luôn luôn bảo đảm một số quyền cuả người dân không bao giờ bị tước đoạt, ngay cả sau khi bị chế ngự bởi tuyệt đại đa số (extremely large majority).
Đây là những quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do thờ phượng tôn giáo. Đa số bắt buộc phải lắng nghe những quan điểm cuả thiểu số. Đa số cũng phải chấp nhận quyền cuả thiểu số tích cực hoạt động bầng những phương tiện hợp pháp để chiếm vị trí đa số. 

4/ Đảng Chính Trị. Đảng chính trị là yếu tố tối cần thiết trong một chế độ dân chủ. Những đảng đối lập làm cho cuộc bầu cử có đầy đủ ý nghiã vì cử tri dẽ dàng chọn lựa những ứng cử viên đại diên những quyền lợi và chính kiến khác nhau. Thông thường các đảng chính trị có quyền lợi và khuynh hướng chính trị không quá khác biệt, cố gậ́ng liên kết với nhau để mưu tìm chiến thấng trong cuộc tranh cử. Nước Mỹ và nước Anh có hệ thống lưỡng đảng đáp ứng với nhu cầu kết hợp.
Trong những quốc gia dân chủ, đảng hoặc những đảng không nắm chính quyền thường giữ vai trò đối lập, theo dõi và phê phán chính sách, việc làm cuả đảng đang cầm quyền. Bằng cách nầy, đảng đang cầm quyền được nhắc nhở điều chỉnh hoạt động và chịu trách nhiệm trước dân chúng. Trong chế độ toàn trị, chỉ có một đảng chính quyền được tồn tại, sự phê phán chính quyền bị kết tội phản loạn. Bầu cử trong chế độ toàn trị chỉ làm chiếu lệ, tượng trưng, theo chính sách "đảng cử, dân bầu", người dân mất quyền chọn người tài đức.

5/ Phân Quyền. Điều quan trọng trong xã hội dân chủ là phân chia và phân phối quyền lực chính trị một cách đồng đều. Những thể chế dân chủ đều có những cách thức sắp đặt khác nhau để tránh một cá nhân hay một ngành nào cuả chính quyền có quyền lực áp đảo. Thí dụ Hiến Pháp Hoa Kỳ phân chia quyền chính trị giữa chính quyền tiểu bang và chính quyền liên bang. Một số quyền chỉ thuộc tiểu bang, một số quyền chỉ thuộc chính quyền liên bang và một số quyền được phân định cho cả tiểu bang và liên bang.
Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng thiết lập một chính quyền trung ương cân đối bầng cách phân chia quyền lực giưã ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp độc lập với nhau. Ngành hành pháp thi hành luật pháp với Tổng Thống là đại diện chính quyền trung ương ; ngành lập pháp tập trung tại Quốc Hội và làm ra luật pháp ; ngành tư pháp giả thích luật pháp với Tối Cao Pháp Viện là toà án liên bang có thẫm quyền trên hết.
Một người chỉ được phép phục vụ một ngành cuả chính quyền mà thôi trong cùng một thời gian. Quyền lực cuả mỗi ngành được qui định để kiểm tra hay cân bằng với quyền lực cuả ngành khác. Những quyền không được hiến pháp hoặc hiến chương xác nhận giao cho chính quyền, thường được dành riêng cho công dân.

6/ Chính Quyền Hiến Định  (Constitutional Government). Ch́inh quyền hiến định là chính quyền đặt căn bản trên hiến pháp. Hiến pháp qui định thẩm quyền và trách nhiệm cuả chính quyền, giới hạn những điều chính quyền được phép làm. Hiến pháp cũng nói đến luật pháp được thực thi và cưỡng hành như thế nào. 
Hiến pháp Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia trên thế giới là một văn kiện chữ viết. Hiến pháp nước Anh không viết thành văn bản mà gồm một số luật do Nghị Viện thông qua.

7/ Những Tổ Chức Tư Nhân  (Private Organizations). Trong chế độ dân chủ, cá nhân và những tổ chức tư nhân điều khiển hoạt động kinh tế và xã hội không thuộc quyền kiểm soát cuả chính phủ. Thí dụ : nhật báo, tuần báo, đặc san, nhà xuất bản...do tư nhân làm chủ và điều hành. Nghiệp đoàn hoạt động bênh vực quyền lợi cho người lao động chứ không vì nhà nước. Chính quyền dân chủ không can thiệp và việc thờ phượng tôn giáo. Những trường tư thục mở lớp song song với các trường công lập. Trong xả hội dân chủ hầu hết các hoạt động thương mải đều do tư nhân sở hữu và điều hành.


PHẢI CÓ DÂN CHỦ

1/ Bảo Vệ Nhân Quyền. Dân chủ bảo vệ tự do cá nhân và thăng tiến sự bình đẳng. Tuyên Ngôn Độc Lập cuả Hiệp Chúng Quốc bày tỏ niềm tin tất cả mọi người sinh ra bình đẳng, được Tạo Hóa ban tặng những quyền hạn không thể bị chuyển nhượng như là Đời Sống, Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc. Tuyên Ngôn cũng nói thêm rằng nhân dân có thể thay đổi hoặc xoá bỏ chính quyền nếu chính quyền cản trở những quyền nầy.
Lịch sử đã minh chứng một khi người dân nghĩ rằng những cản trở to lớn với tự do cá nhân và sự bình đẳng vì lý do chính trị thì công việc đơn giản là phải thay thế chính quyền từ thể chế  "vương quyền" sang chế độ cộng hoà, dân chủ. Trong những quốc gia dân chủ hiện nay, chính quyền giữ nhiệm vụ̣ tích cực nhằm bải bỏ những bất bình đẳng, đồng thời thăng tiến các quyền tự do cho người dân. Các quốc gia dân chủ đều có những chương trình an ninh kinh tế, giảm nghèo, phát triển tiềm năng nhân lực, bảo hiểm thắt nghiệp, qui định mức lương tối thiểu, hưu bổng, bảo hiểm sức khoẻ, trợ cấp giáo dục, luật dân quyền.

2/ Bảo Đảm Hoà Bình Trong Những Chuyển Biến. Những người có tư tưởng dân chủ tin rằng tiến trình làm chuyển biến xã hội bầng bạo lực cách mạng là không cần thiết. Họ cũng khẳng định rằng dân chủ phải đáp ứng những đòi hỏi chính đáng cuả người dân một cách hữu hiệu hơn bậ́t cứ một hình thức chính quyền nào khác. Những người ủng hộ dân chủ muốn nhắc đến những biến chuyển kinh tế, xã hội tại Hoa Kỳ và Anh Quốc trong những năm đầu thế kỷ 20, đã xảy ra một cách hoà bình. Đối với những lảnh đạo chính trị, dân chủ cũng tạo ra sự chuyển đổi và nối tiếp một cách trật tự. Những Hiến Pháp dân chủ đều qui định những cuộc bầu cử tự do định kỳ và dự liệu những thủ tục kế thưà trong trường hợp người lảnh đạo chính quyền tử vong bất thường hoặc không còn đủ năng lực thi hành nhiệm vụ.


THỰC THI DÂN CHỦ

1/ Sự Tham Gia cuả Người Dân . Nền dân chủ đòi hỏi sự tham gia rộng rải cuả người dân trong sinh hoạt chính trị. Đấy là bổn phận cuả tất cả công dân trưởng thành đi bầu phiếu trong các cuộc tuyển cử tại điạ phương, tiểu bang, liên bang. Những cá nhân có đủ điều kiện hđ̣p lệ nên ra tranh củ vào những chức vụ công cử, phục vụ trong hội thẩm ưoàn, góp phần vào an sinh xã hội với tất cả khả năng. Người công dân cũng nên dự phần hướng dẫn dư luận bằng cách nêu lên những đề tài quan trọng và gíup đở chọn lưạ những chính đảng tốt. Một công dân tích cực là một người nâng động chống tham nhủng và chống chính quyền không đủ nâng lực.

2/ Giáo Dục và Dân Chủ . Sự tham gia chính trị rộng khắp chưa hẵn là điều cần thiết bảo đảm một chính quyền tốt vì vậy phẩm chất cuả chính quyền lệ thuộc vào trình độ hiểu biết.  Người công dân với đầy đủ kiến thức, học vấn, thành tâm, thiện chí mới có đủ khả năng đóng góp chính quyền một cách thông minh. Lịch sử chứng tỏ rằ̉ng dân chủ thường thành công trong những quốc gia có nền giáo dục tốt và dân chúng có nhiều cơ hội về học vấn. Với lý do nầy, những chính quyền dân chủ thường yễm trợ mạnh mẻ kế hoạch giáo dục cho toàn dân. 
Nền dân chủ cần đến những công dân có học vấn vì họ có khả năng chia sẻ những vấn đề công ích, hiểu biết những vấn đề cuả quần chúng và bầu phiếu đúng theo nhu cầu. Từ đó định chế dân chủ tạo nên những nhà cầm quyền có đủ giá trị thi hành trách nhiêm và được nhân dân tin tưởng.
Trong xã hội kỷ nghệ hiện nay, hầu hết mọi người đều có những kiến thức khoa học, kỷ thuật, để hiểu biết, phán xét những vấn đề cuả chính quyền, ngoại trừ một số ít cử tri quá bận rộn không có đủ thời giờ hoặc thiếu những kiến thức chuyên môn. Ngay cả những viên chức đắc cử cũng cần đến  những chuyên gia góp ý trong một số công việc. Cử tri chuyển những quan điểm của họ đến các đại biểu bằng cách bầu những ứng viên có đủ kiến thức, chung một dòng suy nghĩ và đáng tin cậy. 

3/ Dân Chủ và Phát Triển Kinh Tế. Lịch sử chứng minh rằng dân chủ dễ dàng phát triển trong những xã hội ổn định, giàu nghèo không quá chênh lệc, thành phần trung lưu chiếm đa số. Trong thời kỳ kinh tế suy thoái trầm trọng, nhiều quốc gia dân chủ bị sụp đổ. Khi số đông quần chúng không có công việc làm ăn họ thường ủng hộ nhóm lật đổ chính quyển. Một quốc gia đang bị nạn đói hoành hành, thực phẩm cứu trợ quan trọng hơn là quyền bầu cử và những quyển năng chính trị khác.

4/ Chuyển Đổi Giai Cấp. Điều cốt yếu cuả dân chủ là sự chuyển biến cuả m̃ỗi người hoặc cuả một nhóm người từ giai cấp nầy quia giai cấp khác. Họ đều có cơ hội hoàn toàn bình đẩng để gia tăng lợi tức, thăng tiến nghề nghiệp, nâng cao điạ vị xã hội. Một quốc gia dân chủ kjhông có bất cứ sự hạn chế nào đối với cá nhân vì lý do chủng tộc, tôn giáo, giai cấp xả hội.

̀5/ Đồng Thuận Trên Những Nền Tảng  (Agreement on Fundamentals).  Đây là vấn đề trọng yếu cuả dân chủ . Dân chúng trong chế độ dân chủ phải tin vào phẩm giá căn bản và sự bình đẳng cuả tấ cả mọi người. Măc dù dân chủ nhấn mạnh đến sự quan trọng cuả cá nhân, tuy nhiên người công dân phải đặt sự an nguy cuả đất nước trên quyền lợi riêng tư cuả mỗi người. Người dân cũng phải thuận thảo tổng quát những mục tiêu cuả chính quyền. Họ phải phân tích, tìm kiếm cách tốt nhât để thành đạt các mục tiêu. Và nếu những mục tiêu chính nó không trong sáng, nền móng dân chủ sẽ dễ bị đổ vở.


DIỂN TIẾN PHÁT TRIỂN DÂN CHỦ 

1/ Nguồn Gốc Dân Chủ. Dân chủ bắt đầu khai sinh từ Hy Lạp cổ thời vào khoản 600 TCN. Những nhà tư tưởng chính trị ̣̣(political thinkers) Hy Lạp nhấn mạnh đến ý nghiã cai trị bằng luật pháp. Họ chỉ trích chế độ độc tài như là hình thức chính quyền tồi tệ nhất. Nhả Điển và một số đô thị khác cuả Hy Lạp đã tạo lập chính quyền dân chủ ngay từ thời bấy giờ.
Dân chủ ngày xưa tại Nhả Điển là dân chủ trực tiếp khác với dân chủ đại diện ngày nay. Mỗi nam công dân có bổn phận phục vụ thường xuyên trong quốc hội để thông qua luật lệ và quyết định tất cả những chính sách quan trọng cuả chính phủ và không có sự phân chia giữa hai ngành hành pháp và lập pháp. Trong thời gian nầy những người nô lệ chiếm một phần lớn dân số Nhả Điển và ̣đều phải làm việc nặng nhọc. Nô lệ và phụ nữ không được bầu phiếu.
Người La Mã cổ thời cũng kinh qua dân chủ n hưng thực hiện khác với cư dân Nhả Điển. Những nhà tư tưởng chính trị La Mã chỉ dạy rầng quyền lực chính trị phát xuất từ sự đồng thuận cuả dân chúng. Chính trị gia La Mã Cicero đã lưu lại câu nói để đời rằng con người có những quyền tự nhiên mà tất cả chính quyên đều phải tôn trọng.

2/ Thời Trung Cổ. Cơ Đốc Giáo (Christianity) dạy rằng tất cả mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế, làm gia tăng lý tưởng dân chủ coi mọi người đều là anh em. Cơ Đốc Giáo cũng khai m̉ở thêm tư tưởng rằng tín đồ Cơ Đốc Giáo là công dân của hai vương quốc : vương quốc cuả Thiên Chuá và vương quốc cuả trần gian. Điều nầy giải thích rằng không mộ̣t quốc gia nào đòi hỏi người dân phải trung thành tuyệt đối vì lẻ người dân cũng phải tuân phục Thượng Đế và Những Điều Răn Dạy. Trong suốt thời Trung Cổ (400 - 1500), sự tranh chấp giữa hai sự trung thành nầy là cơ hội tìm thấy nền tảng cho chính quyền dưạ trên hiến pháp.

3/ Thời Phục Hưng và Thời Cải Cách. Cuộc bùng nổ lớn về văn hoá được gọi là Thời Phục Hưng trải khắp Âu Châu trong suốt ba thế kỷ 1300's, 1400's, 1500's. Một tinh thần mới về tư tưởng cá nhân và độc lập được phát triển mạnh, ảnh hưởng đến tư duy chính trị và thúc đẩy dân chủ. Con người bắt đầu đòi hỏi tự do hơn nữa trong tất cả lĩnh vực cuả đời sống.
Sự chuyển hướng mới mẻ cuả tư tưởng cá nhân độc lập được thể hiện trong giáo phái Tin Lành, nhấn mạnh đến sự quan trọng cuả lương tâm cá nhân. Trong suốt thế kỷ 1500's, cả Công Giáo và Tin Lành đều binh vực quyền chống lại nền quân chủ chuyên chế. Cả hai tôn giáo đều lý luận rằng quyền lực chính trị cuả những kẻ cầm quyền trên thế gian (political power of earthly rulers) phát sinh từ sự thoả thuận cuả con người.

4/ Dân Chủ ở Nước Anh. Năm 1215, qúi tộc Anh ép buộc Vua John chấp thuận Bản Đại Hiến Chương (Magna Carta). Tài liệu nầy là biểu tượng tự do cuả nhân loại được dùng để hổ trợ những đòi hỏi việc xét xử trước toà án với bồi thẩm đoàn, chống lại việc bắt giam vi luật (unlawfull arrest) và không đóng thuế nếu không có đại diện.
Nền dân chủ Anh Quốc phát triển chậm chạp, trải dài hơn bốn trăm năm. Năm 1628, Quốc Hội thông qua Thỉnh Nguyện Quyền ̣(Petition of Right). Bản thỉnh nguyệđn đạo đạt lên Vua Charles I xin ngưng thu thuế vì không có sự đồng ý cuả Quốc Hội, đồng thời yêu cầu Quốc Hội nên họp định kỳ.. Vua Charles không chấp thuận sự giới hạn vương quyền và nội chiến bùng nổ năm 1642. Tín đồ Thanh Giáo (Puritans) do Oliver Cromwell lảnh đạo đánh bại phe Bảo Hoàng và Vua Charles bị chém đầu năm 1649.
Cuộc cách mạng ở nước Anh thiết lập thẫm quyền tối cao dành cho Quốc Hội năm 1688. John Locke, một triết gia cuả cuộc cách mạng tuyên bố rằng quyền hạn trên hết của những vấn đề chính trị thuộc về nhân dân và mục tiêu chính cuả chính quyền là bảo vệ đời sống, tự do và tài sản cuả người dân. Quốc Hội thông qua Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1689, bảo đảm những quyền dân sự căn bản.
Tuy nhiên tình trạng dân chủ vẫn còn phôi thai. Một số thành phố kỷ nghệ lớn không có đại dưện trong Quốc Hội mãi đến sau khi ban hành Luật Cải Cách (Reform Bill) năm 1832. Định mức tài sản cho việc bầu phiếu dần dần tan biến. Đến năm 1918, lần đầu tiên tất cả nam công dân được phép đi bầu và mãi đến 1928, bầu phiếu nới rộng đên tất cả nữ cử tri.

5/ Những đóng góp cuả người Pháp đối với dân chủ. Những đóng góp cuả người Pháp đối với dân chủ được thể hiện trong những năm cuả thế kỷ 1700's, xuất phá từ những tư tưởng chính trị cuả Montesqiueu, Voltaire, và Jean Jacques Rousseau. Những bài viết cuả họ làm bùng lên cuộc Cách Mạng Pháp bắt đầu năm 1789. Montesquieu lý luận rằng tự do chính trị đòi hỏi phân cách riêng biệt ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp. Voltaire hô hào chống lại chính quyền xâm nhập vào quyền lợi cá nhân và sự tự do. Rousseau tuyên bố trong tác phẫm Khế Ước Xã Hội (The Social Contract) năm 1762 rằng "người dân có bổn phận chỉ tuân theo những quyền lực hợp pháp" (people have a duty to obey only legitimate powers). Ông cũng nói thêm rằng những nhà cầm quyền đứng đắn chính là những người được dên chúng tự do chọn lựa.
Cuộc Cách Mạng Pháp, một biến cố quan trọng trong lịch sử, làm thăng tiến những tư tưởng về tự do và bình đẳng, tuy rằng chưa biến đổi nước Pháp thành một quốc gia dân chủ nhưng đã ngăn cản, hạn chế những quyền lực cuả vương triều.

6/ Dân Chủ Mỹ Quốc. Nền dân chủ Hoa Kỳ bắt nguồn từ những truyền thống do những người Anh di dân đầu tiên mang đến vùng Bắc nước Mỹ. Những người đi tìm vùng đất hưá ̣(Pilgrims) để tránh cuộc xung đột tôn giáo tại quê nhà, định cư lập nghiệp tại Massachusettes năm 1620, họp nhau ký kết Khế Ước Mayflower (Mayflower Compact) nhằm tuân chỉ  "luật công bằng và bình đẳng" (just and equal laws). Hơn 150 năm tiếp theo, cuộc Cách Mạng Mỹ (American Revolution) bắt đầu vào năm ̣1775. Những người di dân muốn tự trị và không muốn bị đóng thuế nếu không có đại diện. Tuyên Ngôn Độc Lập  (The Declaration of Independence) được Quốc Hội Lục Điạ (Continental Congress)  công bố năm 1776 là một tài liệu cổ điển về dân chủ, xây dựng nhân quyền như là một lý tưởng mà chính quyền phải noi theo.
Hầu hết những Quốc Phụ (Founding Fathers) thời bấy giờ không tin vào thể chế dân chủ trực tiếp kiểu Nhã Điển vì họ nghĩ rằng giao quyền cho dân chúng quá nhiều sẽ trở thành hổn loạn và họ muốn thành lập chính thể cộng hoà. Vì lý do nầy, những người viết Hiến Pháp Mỹ tạo nên hệ thống phân quyền giữa liên bang và tiẻu bang. Họ cũng phân chia quyền lực thành các ngành lập,pháp, hành pháp, tư pháp. Ngoài ra Tổng Thống không bầu trực tiếp mà bầu qua cử tri đoàn.
Khuynh hướng trường kỳ cuả Hiệp Chúng Quốc là làm cho tất cả công dân Mỹ trưởng thành đều có quyền bầu cử. Năm 1870, những nam công dân da trắng trong các tiểu bang  đều có quyền bầu cử. Tu Chính Án thứ 15 ban hành năm 1870 cho đàn ông da đen quyền bầu phiếu. Năm 1920 , Tu Chính Án thứ 19 cho phụ nử quyền bầu cử.

7/ Dân Chủ Phát Triển và Trở Ngại. Dân chủ tiếp tục phát triển trong những năm cuả thế kỷ 1800's tại những quốc gia theo gương nước Anh và nước Mỹ. Những định chế chính trị như là lập pháp, bầu cử, trở nên phổ biến. Các Vua vẫn trị vì nhưng họ mất nhiều quyền lực và thi hành những nhiệm vụ có tính cách nghi thức.
Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ  (Industrial Revolution) làm cho những thay đổi chính trị trở nên vô cùng quan trọng. Trong hậu bán thế kỷ 1800's, giai cấp lao đã đòi hỏi và đã nhận được quyền lực chính trị nhiều hơn. Những luật lệ mới đem đến người dân quyền bầu cử. Những quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, tôn giáo được mở rộng và lan tràn khắp nơi.
Tuy nhiên dân chủ cũng gặp những trở ngại tại một số lảnh thổ. Một số quốc gia sau khi mô phỏng mẫu mực Hiến pháp Mỹ, lạ trở nên toàn trị. Từ hiện tượng nầy, nhiều người nghĩ rằng chỉ với bản Hiến Pháp không đủ bảo đảm một xả hội yên vui trong một chế độ dân chủ. Tại Nga, một nhóm nổi loạn lập nên chính quyền độc tài cộng sản năm 1917, phá nát chính quyền dân chủ. Nước Đức tuy đã xây dựng được nền tảng dân chủ năm 1919, nhưng sau đó Adolf Hitler lạ̣i vùng lên năm chính quyền hình thànhn chế độ độc tài phát xít năm 1933.
Tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều tự̣ xưng là dân chủ, tuy nhiên những quyền tự do căn bản cuả một chế độ dân chủ vẫn bị hạn chế, lạm dụng tại một số quốc gia. Trước đây, khi khối cộng sản đệ tam quốc tế chưa tan vở, hằng ngày từ Mạc Tư Khoa đến Bắc Kinh, Hà Nội đều lớn tiếng bênh vực một thể chế "dân chủ nhân dân". Ngày nay, trong thế yếu với năm quốc gia còn lại, liên kết lỏng leỏ gồm Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba, Lào, vẫn tiếp tục làm lệch hướng, bẻ cong những nguyên tắc dân chủ. Tại các quốc gia cộng sản nầy, đảng cộng sản là tổ chức chính trị duy nhất cai trị đất nước, nắm trong tay ba quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp. Chính quyền cộng sản ngăn cấm các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội, sẵn sàng tù đày, thủ tiêu những người chỉ trích những hành vi sai trái, tham nhủng cuả đảng cộng sản và nhà nước xả hội chủ nghiã.

***
Trải qua nhiều thế kỷ tranh đấu quả cảm và chấp nhận hy sinh, người dân cuả các quốc gia Anh, Ph́ap, Mỹ đã tạo ra được một mẫu mực chính quyền phù hợp với công đạo : Dân Chủ. Qua thời gian, thể chế dân chủ được bồi đắp, hoàn chỉnh từ lý thuyết đến thực hành, được dân chúng khắp nơi hoan nghênh đón tiếp, tạo lập một đời sống xứng đáng với nhân phẩm.
Tại Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, một số sĩ phu tìm đường cứu nước đã đến Nhật Bản, Trung Hoa Dân Quốc, Pháp Quốc, học hỏi lý thuyết dân chủ, nghiên cứu tổ chức xả hội văn minh. Các bậc tiền bối đã nhận thấy rằng dân chủ là cơ hội khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, gây dựng sức mạnh lâu dài cho Dân Tộc dành lại độc lập từ thực dân Pháp, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh sánh vai với năm châu, bốn biển. Cuộc Tổng Khởi Nghiã Yên Bái năm 1930 là biểu tượ̣ng truyền thống dũng lược cuả lớp thanh niên nhiệt huyết, ảnh hưởng từ cuộc cách mạng Pháp 1789.
Đầu thập niên 1920, một thanh niên học vấn giới hạn, kiến văn non kém, không nghe lời khuyên bảo cuả những nhà cách mạng uyên bác, kinh nghiệm, lạc lối vào mê hồn trận cuả Đệ Tam Quốc Tế. Hắn ta có tên khai sinh Nguyễn Sinh Cung sau đổi thành Hồ Chí Minh, gia nhập đảng cộng sản Nga, được Mac Tư Khoa huấn luyện thành một cán bộ hoạt động khu vực Đông Nam Á. Hắn ta và đồng bọn được nhồi nhét lý thuyết chuyên chính vô sản,vô gia đình, vô Tổ Quốc, thủ đoạn cướp chính quyền bằng bạo lực và sắt máu. Chúng trở nên một nhóm cuồng nhân, mất trí, dồn dập gây ra những tai họa cho toàn khối Dân Tộc từ năm 1945 vẫn còn tiếp diễn đến nay, giêt chết hàng chục triệu đồng bào nam, phụ, lảo, ấu, khắp ba miền Bắc, Trung, Nam.
Dân tộc Việt Nam đang đứng trước vực thẳm diệt vong do tham vọng bành trướng cố hữu cuả Hán tộc tiến quân vào vùng Đông Nam Á. Từ một kẻ xâm lăng truyền kiếp, Trung Cộng đang trở thành một ông thầy, một ông chủ đầy quyền uy cuả đảng cộng sản Việt Nam. Việt cộng hiện nguyên hình một thế lực gian ác như bầy rắn độc quấn quanh một lọ cổ qúi, sẵn sàn đập vở báu vật nếu bị xua đuổi. Dân chúng và những nhà đấu tranh quốc nội, hải ngoại đề cao lý tưởng dân chủ để giải quyết vấn đề sống còn cuả dân tộc. Công cuộc vận động nhân quyền, dân quyền cho Việt Nam được sự hổ trợ cuả hầu hết các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên loài thú bò sát có nọc độc vẫn ngoan cố ôm giữ cả một giang sơn hoa gấm làm con tin, bao che quyền lợi riêng tư cuả đảng bán nước cộng sản.
Dân chủ là giải pháp thích hợp nhât cho Việt Nam trở nên một quốc gia cường thịnh và trường tồn. Những khó khăn trên lộ trình xây dựng dân chủ sẽ được giải toả khi tất cả con người Việt Nam từ quốc nội đến hải ngoại thật sự yêu nước, thật sự đoàn kết và chấp nhận hy sinh.

ĐỖ HỮU LONG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét