Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

Về một người Mỹ đáng nhớ - T. Vấn

John McCain, anh hùng cả trong thời chiến lẫn thời bình của nước Mỹ, qua đời hôm thứ bảy 25 tháng 8 năm 2018 vì ung thư não tại thành phố nhỏ bé Cornville, tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ. Cái tên John McCain quen thuộc với nước Mỹ, quê hương của ông, là một điều hiển nhiên. Vốn là một phi công của binh chủng Hải quân Hoa Kỳ, ông nối nghiệp cha và ông nội, hai người này đều là tướng 4 sao Hải quân. Sau chiến tranh, McCain giải ngũ, tham gia họat động chính trị cho đến ngày phải chịu thua bệnh tật. Ông đã lần lượt là dân biểu Hạ viện, rồi thượng nghị sĩ liên tiếp 6 nhiệm kỳ, từng 2 lần đại diện đảng Cộng Hòa ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ.
<!>
Cái tên John McCain cũng không xa lạ gì với người Việt Nam, miền Nam lẫn miền Bắc, cả trong nước lẫn hải ngọai. Là phi công, khi nước Mỹ tham gia trực tiếp vào chiến tranh Việt Nam năm 1965, ông tình nguyện đảm nhận các nhiệm vụ không kích. Tháng 10 năm 1967, trong một phi vụ gần Hà Nội, phi cơ của McCain bị bắn rơi xuống hồ Trúc Bạch. Ông bị bắt và sau đó, đưa về giam giữ ở trại giam Hỏa Lò, nơi bộ máy tuyên truyền của nhà cầm quyền miền Bắc gọi mỉa mai là khách sạn Hin-Tơn (theo tên hệ thống khách sạn Hilton lớn nhất nhì thế giới của Mỹ). Dạo ấy, hình ảnh McCain bị lực lượng dân quân bắt giữ trên hồ Trúc Bạch được phổ biến khắp các hang cùng ngõ hẻm miền Bắc (cũng như thế giới).
McCain bị dân quân Hà Nội bắt giữ trên hồ Trúc Bạch. Ảnh: Internet

Tháng 4 năm 1968, cha của ông, viên tướng tư lệnh Hải quân bốn sao, được tổng thống Hoa Kỳ LB Johnson bổ nhiệm là tổng tư lệnh lực lượng Thái Bình Dương, bao gồm cả bộ chỉ huy quân đội Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam. Với mục đích tuyên truyền chứ không phải vì nhân đạo, nhà cầm quyền miền Bắc lúc ấy có đề nghị phóng thích McCain, nhưng ông yêu cầu những tù binh Mỹ bị bắt trước ông phải được thả ra trước đã, theo đúng tinh thần “First In, First Out” của quân đội Hoa Kỳ.
Tất nhiên, nhà cầm quyền miền Bắc từ chối lời yêu cầu của McCain, và ngay sau đó đã cho lệnh tống giam ông vào ngục tối kiên giam trong hai năm rưỡi để “trừng phạt”. Tháng 4 năm 1973, hai tháng sau khi hiệp định đình chiến Paris ký kết, McCain được thả sau hơn 5 năm bị bắt làm tù binh, trong đó có 3 năm rưỡi trong các phòng kiên giam.
Chính vì lý do “bị bắt” mà ông đã không được vị đương kim tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, một người có thành tích tìm mọi cách để tránh việc bị động viên trong thời chiến tranh (nói nôm na là trốn lính), công nhận là “anh hùng thời chiến tranh”.
Trong chiến tranh, ngã xuống giữa chiến trường hay chẳng may lọt vào tay đối phương là những điều không một chiến binh nào mong muốn, dù cũng có rất nhiều người coi chuyện đó nhẹ như lông hồng, là cái giá của hy sinh, nhưng đâu có nghĩa cứ phải chết giữa chiến trường mới được coi là anh hùng.
Thực ra, thái độ thẳng tay từ chối “sự phóng thích” của McCain cũng đã đủ chứng tỏ nhân cách, lòng can đảm và nghị lực khác thường của ông ngay từ những năm tháng tuổi trẻ kéo dài mãi sau này trong suốt hơn 60 năm ông cống hiến đời mình cho tổ quốc của mình. [Những ai đã từng ở tù cộng sản đều có thể cảm và hiểu thấu trọn vẹn sự can đảm rất đáng ngưỡng mộ của chàng thanh niên 32 tuổi McCain, cũng như nghị lực phi thường của chàng thanh niên Trần Hùynh Duy Thức từ nhiều năm nay bị ngược đãi trong nhà tù cộng sản, nhưng vẫn quyết không chịu nhận tội mình không làm để được thả tự do. Thậm chí, viên cựu doanh nhân thành đạt này còn không chấp nhận sống ngòai đất nước dù đó là điều kiện để ra khỏi nhà tù].
Cựu tổng thống Obama, từng là đối thủ với McCain trong cuộc chạy đua vào tòa bạch ốc năm 2008, khi nghe tin ông qua đời, đã bày tỏ sự ngưỡng mộ McCain một cách rất sâu sắc “Rất ít người trong chúng ta trải qua những gì mà John (McCain) đã từng bị thử thách hoặc bị buộc phải chứng tỏ lòng can đảm của mình như John đã từng chứng tỏ, nhưng tất cả chúng ta đều (qua sự can đảm của McCain) được tiếp thêm ý chí để cố gắng hướng tới những điều tốt lành vượt lên trên cả chính mình. Và John, bằng khả năng tốt nhất của mình, đã cho chúng ta thấy ý nghĩa đích thực của đời sống. Vì thành quả ấy, tất cả chúng ta đều mắc với John một món nợ”.
[Có lẽ, nếu chẳng may, chàng tuổi trẻ đáng dòng hào kiệt Trần Hùynh Duy Thức của chúng ta, bỏ thây trong nhà tù như ước nguyện của chàng, thì tất cả những người Việt Nam yêu chuộng tự do, dân chủ, công bằng – đều sẽ như người dân Mỹ nợ McCain – chúng ta cũng sẽ nợ Trần Hùynh Duy Thức món nợ lớn về sự xác tín mạnh mẽ phẩm giá con người, thứ phẩm giá vượt lên trên sự chết, vượt lên trên sức chịu đựng hữu hạn của thân xác con người, vượt lên trên mọi cám dỗ đời thường mà những người trẻ khác cùng thời với chàng đã không thể vùng vẫy thóat ra được để dám sống một đời sống đích thực cho xứng tầm với chàng].
Tượng đài ghi dấu nơi máy bay của McCain bị bắn rơi ở Hà Nội. Ảnh: Người Việt

Sáu nhiệm kỳ là thượng nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ, McCain đã có nhiều dịp quay lại Việt Nam, chính thức làm việc với kẻ đã từng cầm tù mình, ngược đãi, sỉ nhục mình và đóng vai trò chiếc gạch nối quan trọng nhất trong nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh giữa hai nước Mỹ và Việt Nam. Nơi máy bay của McCain bị bắn rơi bên bờ hồ Trúc Bạch, nhà cầm quyền Hà Nội đã cho dựng một đài “Tưởng Niệm” để ghi nhớ sự kiện này. Bức phù điêu được gọi là “tưởng niệm” có hình dáng một người quỳ gối, hai tay giơ lên với ý nghĩa xin đầu hàng và được chú thích là “phi công John Sidney McCain, thiếu tá không quân thuộc lực lượng Hải quân Hoa Kỳ”. Sự hiện hữu của bức phù điêu nhằm mang ý nghĩa gì, chính McCain trong một lần được hỏi cũng không biết rõ, dù ông đã từng đến đó, đã từng yêu cầu chỉnh sửa một chi tiết sai trong nội dung chú thích khắc trên bức tượng.
Nếu mục đích của đài tưởng niệm là chứng tích tượng trưng cho sự đầu hàng của “đế quốc Mỹ” trước “nhân dân Việt Nam” thì thật là một sự mỉa mai và thậm chí vô ý thức vì chính McCain (cùng với TNS John Kerry) là hai nhân vật quan trọng nhất giúp Việt Nam có được sự bang giao (mà Việt Nam rất ao ước và cần đến) với kẻ thù cũ năm xưa.
Hôm thứ bẩy 25 tháng 8, 2018, khi nghe tin ông qua đời, nhiều người dân đã đến đây thăm viếng và đặt hoa như một cử chỉ nhớ đến ông, một người Mỹ lịch sử đóng vai trò đáng ghi nhớ ở Việt Nam cả trước lẫn sau khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt. Còn nhớ vì mục đích gì, nhớ như thế nào lại là câu chuyện riêng tùy vào hòan cảnh lịch sử và xã hội của mỗi người.
Đối với người Việt ở hải ngọai, nhất là ở Mỹ, thì cái tên McCain gắn liền với một đạo luật về di dân có tên gọi là Tu Chính Án McCain. Qua nỗ lực không mệt mỏi của McCain, Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua điều khoản cho phép con cái trên 21 tuổi, chưa lập gia đình của các vị cựu tù cải tạo, các gia đình thuộc diện thân nhân bảo lãnh và các thành phần liên quan đến diện con lai Mỹ, được nhập cư nước Mỹ. Rất nhiều người Việt thuộc diện trên vẫn nghĩ mình mang ơn McCain về một cuộc sống tự do bên ngoài đất nước.
Người ta còn nhớ đến McCain ở cá tính độc lập, thẳng thắn, không bao giờ e ngại nói lên suy nghĩ thật của mình về bất cứ vấn đề gì. Trong chính trị (nuớc Mỹ), cá tính ấy đồng nghĩa với việc có nhiều kẻ thù. Cũng vì vậy, tuy cùng chung một đảng Cộng Hòa, nhưng McCain và viên tổng thống đương nhiệm Donald Trump thường xuyên có những xung đột về cách giải quyết những vấn đề quan trọng của nước Mỹ. Là một người mang biệt danh “hùm xám cô đơn” (maverick), bất kể đa số các đồng sự trong đảng Cộng Hòa chọn con đường ủng hộ nghị trình (phù hợp với lập trường bảo thủ) của Trump mà cố tình bỏ qua cho ông này nhiều lầm lỗi cá nhân, McCain chọn ngược lại.
Những xung đột giữa hai người có hai nhân cách hòan tòan đối nghịch nhau, đã đến lúc không thể cứu vãn. Kết quả, trước khi chết, McCain ngỏ ý không muốn có mặt Trump trong tang lễ của mình. Cá tính của McCain mạnh mẽ đến độ không suy xuyễn chút nào dù thân xác đang ở những giây phút sau cùng. Ông cũng đã tỏ ý muốn được hai vị cựu tổng thống Obama và Bush (con), hai cựu đối thủ của ông trong hai cuộc tranh cử tổng thống, đọc điếu văn cho mình trong tang lễ. Quả là một nhân cách đáng phục!
Thế nên, sự ra đi của McCain, trong bối cảnh chính trị nước Mỹ hiện nay, là sự vắng mặt của một tiếng nói công bằng, chính trực, vượt lên trên những khác biệt về đường lối xây dựng đất nước, về đảng phái, về lập trường (bảo thủ hay tự do), về niềm tin vào xã hội, vào con người. Nói cách khác, theo TNS Jeff Flake, một đồng sự của McCain tại Thượng viện Hoa Kỳ, thì “McCain là lương tri của Thượng viện”. Hiểu rộng hơn, đó là lương tri một nước Mỹ mà thế giới đã từng biết đến, mà nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới từng biết đến, mà bao kẻ khốn cùng ở bất cứ nơi nào trên thế giới từng biết đến.
Nay, với sự ra đi của McCain, còn những ai đủ tầm vóc, đủ bản lãnh, đủ tự tin để tiếp bước ông đi con đường đầy gai góc này? Trong khi đó, nhiều chính trị gia chuyên nghiệp chọn con đường thỏa hiệp, nín thở qua sông, giả ngơ giả điếc trước sự lộng hành của dối trá, bịa đặt, hy vọng một ngày trật tự cũ lại được tái lập, vì truyền thống dân chủ của nước Mỹ sẽ không bao giờ cho phép tình trạng như hiện nay kéo dài. Nhưng mức độ phá sản về đạo đức, về mối tương quan giữa con người không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo dường như đã vượt quá lằn ranh an toàn khiến người ta lo sợ về một viễn cảnh không lấy gì làm tốt đẹp lắm cho nước Mỹ.
Để vinh danh cuộc đời một con người lỗi lạc, ngoài việc linh cửu của McCain sẽ được quàn tại thủ đô tiểu bang Arizona theo nghi thức dành cho những người có công trạng đặc biệt cho tiểu bang, một nghi thức tương tự ở cấp liên bang (tòan nước Mỹ) tại thủ đô DC dành cho McCain cũng đã được lưỡng viện quốc hội Mỹ thông qua, một vinh dự mà từ trước tới nay chỉ có 30 người được hưởng. McCain sẽ là người thứ 31. Trước ông, có các tên tuổi như cố TT Gerald Ford, John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson, D. Eisenhower, Herbert Hoover . . .
Công chúng ngưỡng mộ ông sẽ có cơ hội đến căn phòng hình tròn (rotunda) có mái vòm, tọa lạc ở tòa nhà cao nhất của trụ sở quốc hội Hoa Kỳ (Capitol) để viếng linh cửu McCain, rồi sau đó quan tài sẽ được đưa đ chôn tại nghĩa trang học viện hải quân ở Maryland, theo đúng như ước nguyện của người quá cố.
Với người Việt Nam, hiếm khi có nhân vật quốc tế nào qua đời gây nên một xúc động lớn và rộng khắp như trường hợp cựu phi công chiến tranh Việt Nam – cố Thượng Nghị Sĩ John McCain. Điều đó chứng tỏ, một nhân cách lớn luôn có tác động đến người đương thời, đến các thế hệ tương lai, và là nguồn hứng khởi để người ta gắng vượt lên trên những giới hạn của chính bản thân mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét