Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

CHÂU ĐỐC NĂM XƯA - ĐỖ THỦ KHOA

 
* CHÂU ĐỐC QUA CÁC THỜI ĐẠI:Châu Đốc nằm trong dãy đất Tầm Phong Long của Thủy Chân Lạp (Cao Miên sau này) bao gồm: vùng Thất Sơn, vùng đồng bằng Châu Đốc, Long Xuyên, một phần của Sa Đéc, Cao Lãnh và Cần Thơ. Nơi đây là phần đất sinh cơ lập nghiệp của dân Việt, Miên, Lào, Tàu và Chà (theo bia Vĩnh Tế Sơn).
<!>
Đến năm 1757, Phiên Vương Chân Lạp tiến dâng đất này cho Chúa Nguyễn Phúc Khoát để tạ ơn che chở đặt lên ngôi báu (do tài ngoại giao và bảo cử của quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ trấn Hà Tiên). Được đất mới, Chúa Võ Vương sai Thống Suất Trương Phúc An và Tham Mưu Nguyễn Cư Trinh (theo kế sách Tầm Thực của Cư Trinh) đặt 3 đạo:
- Tân Châu đạo ở Tiền Giang.
- Châu Đốc đạo (đóng quân tại bến An Giang sau này, tức Châu Đốc hiện nay. Phụ lục với đạo Châu Đốc có quân binh của dinh Long Hồ sai phái và các bảo Châu Phú, Châu Giang... Cùng liên lạc với đồn binh tại Tịnh Biên để phòng ngự vùng Thất Sơn và 2 sông Tiền, Hậu).
- Đông Khẩu đạo ở Sa Đéc.
Đồng thời, quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ xin Chúa Nguyễn cho lập 2 đạo của Hà Tiên là:
- Kiên Giang đạo ở Rạch Giá.
- Long Xuyên đạo ở Cà Mau (đến giữa triều Minh Mạng đạo này trở thành huyện Long Xuyên tại Cà Mau).
Đạo là khu vực quân sự và hành chánh của 1 vùng, có đồn trại để cai trị 1 vùng.
Đến năm Kỷ Hợi (1779) Chúa Nguyễn cho dời dinh Long Hồ về chợ Vĩnh Long ngày nay và đặt quan cai quản đất mới Tầm Phong Long.
Triều Gia Long 1805, đất Tầm Phong Long thống thuộc Vĩnh Trấn. Đến năm 1808, đổi tên là trấn Vĩnh Thanh (quan Đô Thống Thoại Ngọc Hầu là một trong những vị trấn thủ từ năm 1817 - Đinh Sửu, Gia Long thứ 16).
Năm Gia Long thứ 15, Bính Tý (1816) Vua giáng dụ đấp đồn Châu Đốc (do Trấn Thủ Lưu Phước Tường chỉ huy) theo mô hình lục giác có hào sâu thành cao bằng đá ong, vôi cát, mặt tiền hướng về bờ sông Châu Đốc (vị trí đồn và tỉnh thần An Giang sau này là thành lính tập (CB) đời Pháp thuộc, sau này là trại Thoại Ngọc Hầu, thuộc tiểu khu Châu Đốc). Tỉnh lỵ An Giang và các lỵ sở hành chánh trực thuộc từ thành lính tập chạy dài lên tiệm rượu Vĩnh Phong Long sau này.
Năm Gia Long thứ 18 Kỷ Mão (1819) Vua giáng dụ đào kinh từ phía Tây đồn Châu Đốc đến Giang Thành Hà Tiên, hoàn tất trong 5 năm. Họa đồ dâng lên, Vua Minh Mạng vui mừng, ban tên đất là “Châu Đốc Tân Cương” đồng thời mang tên kinh là Vĩnh Tế Hà, được chạm khắc vào Cao Đĩnh trước nhà Thế Miếu ở cố đô Huế (chỉ huy đào kinh do Đô Thống Thoại Ngọc Hầu; phụ lực có Thống Chế Nguyễn Văn Tuyên và Diều Bát Nguyễn Văn Tồn. Nhưng công tiếp tế lương thảo, nước uống và dụng cụ đào kinh lại do bà Châu Thị Vĩnh Tế, chánh thất phu nhơn của quan Đô Thống Thoại Ngọc Hầu. Nên Vua lấy tên bà đặt tên kinh và đổi núi Sam thành Vĩnh Tế Sơn. Đồng thời ban vị hiệu cho bà là Nhàn Tĩnh phu nhơn.
Triều Minh Mạng 1832, sau khi Đức Tổng Trấn Quận Công Lê Tả Quân qui thần, Vua ra lệnh dẹp thành Gia Định, các Trấn đổi thành Tỉnh, trực thuộc triều đình.
Đến 1833, dâng chỉ dụ triệt hạ phía Dông đồn Châu Đốc để xây cất tỉnh thành và các cơ sở hành chánh quân sự của tỉnh An Giang. Tỉnh này lúc mới lập chỉ có 2 phủ và 4 huyện.
- Phủ Tuy Biên có 2 huyện: Tây Xuyên (vùng Châu Đốc) và Phong Phú.
- Phủ Tân Thành có 2 huyện: Đông Xuyên (vùng Long Xuyên) và huyện Vĩnh An (Sa Đéc).
Ông Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn là những vị Tổng Đốc An Hà triều Thiệu Trị.
Đến đời Thiệu Trị và Tự Đức, tỉnh An Giang được thêm những phần đất của Hà Tiên (gần vùng Bảy Núi Châu Đốc) và những phần đất Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu sau này.
Trái 2 triều Vua này, An Giang có 3 phủ và 10 huyện chạy dài từ biên giới Việt Miên (vùng Châu Đốc - Cao Lãnh) đến tận bờ biển Nam Hải. So với 3 tỉnh Miền Tây, An Giang là đất lớn nhất, kế đến Hà Tiên và nhỏ nhất là Vĩnh Long. Tuy nhiên, Vĩnh Long là vùng đất thuộc, toàn thể đất đai đều được khai thác, ruộng vườn rất là thạnh mậu (tiếng xưa còn lưu lại Vĩnh Long là miệt vườn).
Sau khi 3 tỉnh miền Đông bị mất, quan Kinh Lược Đại Thần Phan Thanh Giản phụng chỉ triều đình cố thủ 3 tỉnh miền Tây, nên Người dựng tại Vĩnh Long một Văn Thánh Miếu và tại tỉnh thành An Giang (nên nhớ là Châu Đốc sau này) một trường thi hương để thắp sáng nền văn minh, văn hóa Khổng Mạnh và đáp ứng việc học hành khoa cử của con dân 3 tỉnh còn lại.
Đến năm 1867 (ngày 20 tháng 5 Đinh Mão. Năm Tự Đức thứ 20) quân Pháp tiến chiếm tỉnh thành An Giang do Trung Tá Galey cầm quân và 5 ngày sau đó, tỉnh thành Hà Tiên cũng cùng chung số phận.
Sau khi chiếm trọn tỉnh An Giang, chính quyền thuộc địa đã chia năm xẻ bảy tỉnh này ra làm nhiều tỉnh nhỏ gồm: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, do sắc lệnh 143/VN ngày 22/10/1956: 2 tỉnh đời Tây thuộc Châu Đốc, Long Xuyên bị nhập lại gọi An Giang, nhưng tỉnh lỵ đặt tại Long Xuyên (nơi nhau rún của đương triều Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ). Thời này nghe nhiều vị cố lão ở Châu Đốc kể lại và đánh dấu hỏi thật lớn: Tại sao chánh phủ Cộng Hòa không đặt tỉnh lỵ tại Châu Đốc, vì nơi đây là vùng đất xưa, rất là cao ráo, không bị ngập lụt. Xưa, vua quan nhà Nguyễn rất là sáng suốt đặt chánh quyền cấp Tỉnh tại đây để phòng ngự vùng biên giới ngăn ngừa quân xâm lược Miên, Xiêm. Hơn nữa Châu Đốc là đất văn học, vì xưa có trường thi Hương, lại tích tụ văn minh, văn hóa Việt Nam, Miên, Lào, Chà và di dân Trung Hoa, lại trù phú thạnh mậu về nông lâm thủy sản, gia cầm gia súc cùng nền kinh tế xuất nhập cảng nữa.
Sự xáp nhập này đưa công nho 50 xã của vùng Châu Đốc về phát triển cho Long Xuyên cho đến 9 năm sau. Năm 1964 Châu Đốc được trả lại thành tỉnh (thời Đệ Nhị Cộng Hòa).
* NHỮNG TỪ MIẾU & DI TÍCH CÒN LƯU LẠI TẠI CHÂU ĐỐC— Đền Thờ Lễ Công (tức Đình Thần Châu Phú hiện nay).Xưa do quan Trấn Thủ Thoại Ngọc Hầu tạo lập để thờ phụng Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, vị đại khai quốc công thần đời Chúa Nguyễn Phúc Chu đã có kỳ công bình Chiêm Thành (vùng Bình Thuận, Khánh Hòa 1613), đặt nền hành chánh đầu tiên tại Nam phần (Biên Hòa, Gia Định năm 1698). Sau cùng kéo quân binh lên tận đất Miên để dẹp giặc và phủ dụ dân Miên 1699-1700. Ông mất năm 1700, di hài được chôn cất tại cù lao Phố (Biên Hòa). Ông là vị công thần được nhiều nơi thờ nhất. Điển hình tùng tự tại nhà Thái Miếu Cố Đô Huế, lăng mộ tại Biên Hòa, đình Minh Hương Gia Thạnh Chợ Lớn, Rạch Gầm Mỹ Tho (nơi ông mất), vùng Cù Lao Ông Chưởng và Châu Thành Long Xuyên, chợ Châu Đốc và các xã lân cận. Xưa, ông có ân và uy với dân Miên nên trên dầu Cồn trước chợ Nam Vang còn đền thờ để tưởng nhớ ông. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ. Mục Từ Miếu).
— Miếu Thành Hoàng (Miếu Ông Hàn ngang trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc). Miễu tạo lập năm Thiệu Trị, có lúc dời lên phía Tây tỉnh thành thuộc thôn Vĩnh Ngươn. Sau triều Tự Đức, dời lại chỗ cũ phía Đông tỉnh thành thờ Đương Cảnh Bổn Thổ Thành Hoàng (vị thần bảo hộ cho tỉnh thành An Giang xưa). (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu).
— Chùa Tây An: Trúc tạo năm 1847 do quan Tổng Đốc An Hà Trấn Tây Mưu Lược Tướng tước hiệu Tuy Tĩnh Bá Doãn Uẩn (gốc người Bắc) Trùng kiến Tây An. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu).
— Miếu Âm Nhơn Cô Hồn (đối diện Miếu Thành Hoàng) Xưa để thờ tự “Hớn Thanh Minh Thổ Vô Tự Oan Hồn” đã tử trận hoặc tử nạn. Nay bị dẹp để làm trụ sở Hội Hồng Thập Tự và chùa Viên Quang. Nhưng còn lưu lại Cây Sộp cành lá xum xuê, ba bốn người ôm không giáp để lưu di tích miếu xưa.
— Chùa Sắc Tứ Châu Long: Do bà Châu Thị Vĩnh Tế tạo lập để phụng thờ những anh hồn Châu Đốc bình tặc tướng sĩ trận vong và vô tự oan hồn tử nạn trong công tác đào kinh Vĩnh Tế. Chùa này tọa lạc trong vòng rào dinh Tỉnh Trưởng Châu Đốc. Đời Tây dời về ấp Châu Long như hiện nay. Trong chùa còn lưu giữ bản sắc do vua Tự Đức ban cấp.
— Công sở xã Châu Phú: Trước kia nằm tại đình Châu Phú hiện giờ. Vì đình Châu Phú di chuyển từ bên hông nhà trường về địa điểm hiện nay, do đó công sở mới dời về phía trong Đài Chiến Sĩ. Lúc trước còn có tên là Nhà Vuông, được xây cất nguy nga, đồ sộ. 2 tầng nửa Âu, nửa Á. Đã bị hủy đi sau Tết Mậu Thân.
— Bồ Đề Đạo Tràng: Nơi có bảo tháp thờ Phật và cây bồ đề con của cây bồ đề Bảo Thọ nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo tại Ấn Độ. Công đức tạo lập này là ông Đốc Học Phạm Ngọc Đa và cố Tỉnh Trưởng Đặng Văn Lý. (Vị trước xin cây bồ đề từ chính phủ Ấn Độ. Vị sau thuận cho lập tại trung tâm chợ Châu Đốc từ năm 1952, nơi đây là địa điểm hành hương của Phật Tử toàn quốc khi đến Châu Đốc hành hương).
— Lăng Mộ Thoại Ngọc Hầu: Vị thượng quan 2 triều Gia Long, Minh Mạng, có lúc làm trấn thủ Vĩnh Thanh, có lúc làm bảo hộ Cao Miên; án thủ đồn Châu Đốc và quản trấn Hà Tiên. Xưa, từng tùng vong theo Chúa Nguyễn Ánh qua Xiêm, đồng thời làm nhà ngoại giao với các nước Xiêm, Lào, Miên để giúp Chúa Nguyễn thống nhất đất nước. Có công đào kinh Thoại Hà (Long Xuyên - Rạch Giá), kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc - Hà Tiên), mở mang vùng Cù Lao Dài (Vĩnh Long), vùng núi Sập (Long Xuyên), vùng Châu Đốc và các xã hai bên kinh Vĩnh Tế. Lăng Mộ rất nguy nga tráng lệ, được tô đắp nét chân nét thảo. Nhờ trong vùng an ninh nên khu lăng lộ của ông và hai bà cùng thân quyến, tùy tùng... hơn 100 ngôi mộ được lưu giữ tốt đẹp cho đến ngày hôm nay.
— Miếu Bà Chúa Xứ: Nơi thờ vị thánh mẫu, hàng năm làm lễ cúng rất long trọng từ 23 đến 27 tháng 4 âm lịch.

* VÀI LỜI MINH XÁC:
Vì những bài sưu khảo trước đây có lắm điều sai lạc với tỉnh nhà, chúng tôi xin xác nhận và tuần tự liệt kê dưới đây:
- Tỉnh thành An Giang xưa được kiến tạo tại Châu Đốc, nay còn di tích được Bộ Văn Hóa Giáo Dục dưới thời đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa công nhận. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Tỉnh An Giang - Mục Cổ Tích).
- Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, trước khi kéo quân lên bình định đất Miên, ông là quan Trấn Thủ trấn Bình Khương, do đó Tổng Hành Dinh của ông đặt tại Bình Khương. Vùng Cù Lao Ông Chưởng chỉ là nơi ông trú quân một thời gian ngắn (vì ông và toàn thể quân binh đều bị bịnh dịch). Sau mấy ngày di chuyển về Rạch Gầm (Định Tường) thì ông mất. (Theo Thực Lục Tiên Biên).
- Chùa Tây An Châu Đốc: Hành trì theo phái Lâm Tế từ lâu. Đến năm 1847, ông Tổng Đốc Doãn Uẩn tạo dựng lại. Còn Phật Thầy chỉ trú ngụ và nương náu một thời gian ngắn rồi thị tịch. Xác chôn cạnh chùa (do đó Phật Thầy không là người lập chùa Tây An). (Theo Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu và Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn Văn Hầu.
- Châu Đốc mất tỉnh trong 9 năm thời Đệ I Cộng Hòa, có nghĩa là đầu não của tòa Hành Chánh mất, nhưng địa danh vẫn còn, vả lại Châu Đốc là chữ nho phiên âm ra, chính vì thế, hồi Đệ I Cộng Hòa không có sửa Châu Đốc đổi lại thành Châu Phú (Xin nhớ Châu Phú là tên quận Châu Thành của Châu Đốc mà thôi). Đầu đời Đệ II Cộng Hòa 1964, chính phủ đồng loạt trả lại các tỉnh đã bị sáp nhập toàn quốc, không riêng vì tỉnh Châu Đốc, cho nên có người nói nhân sĩ Châu Đốc thỉnh cầu tái lập tỉnh vào năm 1964 là sai.
Mặc dù mất tỉnh trong 9 năm, Châu Đốc vẫn còn giữ 1 ty Bưu Điện, ty Trung Gian Ngân Khố (tuy nhiên ty này quản trị số tiền còn nhiều hơn ở tỉnh An Giang thời đó), 1 chợ phiên trâu bò (hàng tháng hoặc 110 ngày họp mua bán 1 lần), 2 ty Chánh Thu Quan Thuế (1 tại Châu Đốc, 1 tại Tân Châu). Trong khi tại tỉnh An Giang chỉ có 1 ty phụ thu quan thuế mà thôi. Nói về thủy sản, Châu Đốc là trên nguồn so với các tỉnh phía dưới, do đó thu hoạch thủy sản phải nhiều hơn. Riêng gia cầm gia súc như bò, trâu, heo, gà, vịt... nhờ nước bạn tiếp sức nên hàng ngày biết bao nhiêu xe hàng chuyên chở xuất tỉnh (lúc đó Châu Đốc được trung ương cấp giấy ban khen là 1 địa phương cung cấp thực phẩm cho Sài Gòn nhiều nhất).
Ngoài ra những dược liệu ở Châu Đốc phải kể là nhiều nhất, xuất phát từ Bảy Núi trùng điệp và ngọn núi Tà Lơn của Cao Miên cung cấp.
Ngoài ra còn biết bao sai sót khác, nhưng chúng tôi để công luận suy xét.

* Tài liệu tham khảo:
- Đại Nam Nhất Thống Chí do Tu Trai Nguyễn Tạo dịch.
- Thoại Ngọc Hầu khai phá miền Hậu Giang và Thất Sơn mầu nhiệm do Giáo Sư Nguyễn Văn Hầu (Tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo).
- Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam.
- Đất Việt, Trời Nam của Thái Văn Kiểm.
- Tài liệu Việt Tấn Xã (Người Việt, Đất Việt của Toan Ánh).
- Tiểu sử Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tại Đình Thần Châu Phú Châu Đốc.
- Việt Nam Phật Giáo Sử của Thượng Tọa Mật Thể.
- Lời thuật của các vị nhân sĩ trong ban Bảo Tồn Cổ Tích của tỉnh Châu Đốc (Ông Thông Phán Đặng Văn Giáp).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét