Trong phần trước chúng tôi đã trình bày rõ Mỹ biết âm mưu của Cộng quân là huy động lực lượng chiếm Huế để làm thủ đô của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nên Mỹ đã huy động một lục lượng lớn, chờ Cộng quân rơi vào tử địa là tiêu diệt. Trong bài này, chúng tôi sẽ trình bày qua về tình trạng thảm sát ở Huế và phân tích lý do tại sao Hà Nội phải ra lệnh tàn sát.
<!>THỰC HIỆN VIỆC THẢM SÁT
Trước khi Cộng quân mở cuộc tấn công Huế, các thành phần ly khai bỏ đi theo Việt Cộng từ năm 1966 và các tên nằm vùng đã lập sẵn danh sách những người mà chúng cho rằng cần phải thanh toán. Vì thế, khi mới vào Huế, chúng đã mở cuộc lục xét khắp nơi để tìm những người này.
Ngoài những người có tên trong “sổ đen”, các toán an ninh đi lùng bắt các thành phần bị coi là Việt gian, ác ôn hay phản động như công chức, binh sĩ VNCH, cảnh sát, nhân viên sở Mỹ, các thành phần đảng phái, người công giáo, v.v.
1.- Tại Thành Nội (Quận 1) và một phần khu Tả Ngạn (Quận 2).
Hoàng Nguyên giao việc thanh lọc và xét xử cho cho hai sinh viên là Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do tại sao họ bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết án tử hình sau khi bị dọa, qui chụp và kết tội. Một số bị xử tử ngay tức khắc.
Phiên tòa tại Thành Nội và khu Tả Ngạn chỉ kéo dài trong 2 ngày là xong, sau đó một chiến dịch khủng bố đã được phát động: Một người mở trộm radio nghe đã bị đưa ra bắn giữa đường phố để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị đưa ra bắn. Nguyễn Đọc đã bắn nhiều người trong đó có một bạn thân đồng lớp với anh ta, chỉ vì anh này không chịu hợp tác với y.
2.- Tại khu Gia Hội: Hoàng Nguyên giao Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường phụ trách.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tốt nghiệp đại học Huế, đi dạy học và là một trong các lãnh tụï sinh viên Phật Giáo đấu tranh chống chính quyền VNCH năm 1966, sau đó Tường đi theo MTGPMN.
Chùa Theravada ở đường Võ Tánh được dùng làm trụ sở để các công chức và quân nhân VNCH đến trình diện,
Trường Trung Học Gia Hội của Dòng Mai Khôi (Phú Xuân) được dùng làm nơi giam giữ và xét xử các thành phần bị coi là Việt gian hay phản động. Theo Bác sĩ Elje Vannema, các phiên tòa ở đây đểu do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa.
Người đi bắt và bắn chết các nạn nhân là tên Diệu Linh, người Quảng Ngãi, làm nghề thầy bói và khoác cái áo Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Cuộc tàn sát tại đây được thực hiện rất bừa bải và tàn bạo, chẳng hạn như hai anh Nguyễn Ngọc Lộ và Nguyễn Thiết bị hạ sát chỉ vì làm nghề nghề dạy võ thất sơn thần quyền, bị cho là một bộ phận của Đại Việt Quốc Dân Đảng. Hai anh đã bị chôn sống ngay trên con đường nhỏ rẽ vào Trường Trung Học Gia Hội sau khi bị đánh bằng cuốc vào đầu. Nghe nói vợ anh Lộ và ba cháu gồm hai gái một trai cũng bị giết tại nhà ở xã Phú Lưu.
Trong số những người bị giết tại Gia Hội, người ta thấy có các nhân vật sau đây: Ông Lê Văn Cư, Phó giám đốc cảnh sát quốc gia Vùng I và ông Phú (em vợ anh Cư), Quận Trưởng Quận 2; ông Từ Tôn Kháng, thiếu tá Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn Thừa Thiên; ông Hồ Đắc Cam và ông Kim Phát, Việt Nam Quốc Dân Đảng; ông Trần Văn Nớp, Trưởng Phòng Hành Chánh Ty Cảnh Sát Thừa Thiên. v.v.
Nguyễn Đắc Xuân là người tổ chức và lãnh đạo “Đoàn Thanh Niên Phật Tử Quyết Tử" tại Huế năm 1966 để chống lại VNCH. Khi bị đánh bại, Xuân đã trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội "Công tác thanh niên" nhắm mục đích khuyến dụ các quân nhân VNCH và cảnh sát bị kẹt ở Huế ra trình diện.
Với quân nhân VNCH, Xuân thành lập “Đoàn Quân Nhân Sư Đoàn 1 ly khai” và bắt Đại Úy Nguyễn Văn Lợi, Tiểu Đoàn Phó Thiểu Đoàn 4, Trung Đoàn 2, mới từ Đồng Hà trở về ăn Tết làm Trưởng Đoàn. Sau đó, Xuân lập “Đoàn Nghĩa Binh Cảnh Sát”, bắt ép Quận Trưởng Hữu Ngạn là Nguyễn Văn Cán ra chỉ huy.
Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau, Bộ Tư Lệnh Quân Khu ra lệnh giải tán hai tổ chức này. Đột nhiên, ngày 18.2.1968, toán an ninh ra lệnh cho các công chức và quân nhân phải ra trình diện lần hai tại Trường Gia Hội rồi giữ lại và đem đi thủ tiêu luôn.
3.- Tại khu Hữu Ngạn (Quận 3)
Toán an ninh ở khu Tả Ngạn không lập tòa án để xét xử các nạn nhân như ở khu Thành Nội và khu Gia Hội. Tại đây, các nạn nhân bị bắt đều bị đưa về giam ở chùa Từ Đàm, bắt làm tờ khai và được thanh lọc rồi đưa đi thủ tiêu. Số nạn nhân ở khu vực này đông nhất vì gồm những người đến ẩn nấp trong khu Dòng Chúa Cứu Thế và nhà thờ chính tòa Phủ Cam.
Tại khu Dòng Chúa Cứu Thế: Khu Hữu Ngạn (tức Quận 3) do Nguyễn Mậu Hiên, bí danh Bảy Lanh đánh chiếm. Bảy Lanh là con nuôi của nhà thuốc bắc Thiên Tường tại chợ An Cựu. Hai con trai của nhà thuốc Thiên Tường là cán bộ Việt Cộng nằm vùng ở cơ quan Xây Dựng Nông Thôn, Vì thế, khi Bảy Lanh vừa làm chủ vùng An Cựu, ông Thiên Tướng và hai người con đã đi lùng bắt tất cả những công chức, quân nhân, cảnh sát, thành phần đảng phái..... trong khu vực Dòng Chúa Cứu Thế.
Tiếp theo, chúng lùa khoảng 150 người đang ẩn trú trong Dòng Chúa Cứu Thế ra sân để thanh lọc. Chúng xét hỏi giấy tờ của từng người... Những ai có căn cước ghi là quân nhân hay công chức đều được đưa ra khỏi hàng ngay, trong đó có Thượng nghị sĩ Trần Điền.
Có khoảng 500 người trong khu vực này bị bắt đưa về chùa Từ Đàm. Về sau, cả ba cha con ông Thiên Tướng đều bị bắt.
Tại nhà thờ Phủ Cam: Nhà thờ này lúc đó chỉ mới được xây xong phần cung thánh và hai cánh tả hữu, nhưng có tường rất dày và trần được đúc bằng bê-ton cốt sắt, nên có thể che chở phần nào bom đạn. Do đó, có trên 3.000 người đã đến ẩn nấp tại đây. Khoảng 1 giờ đêm 7.2.1968, du kích và các toán an ninh đã vào lục soát nhà thờ, sau đó chúng bắt những người từ 15 đến 50 tuổi đứng lên, không phân biệt thành phần. Có khoảng 500 người thuộc lớp tuổi này. Chúng tuyên bố: “Các anh được đưa đi học tập 3 ngày rồi trở về.” Sau đó chúng dẫn những người này đi về chùa Từ Đàm và bắt làm tờ khai. Thỉnh thoảng chúng đưa một người ra gốc cây bồ đề trước sân chùa và bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Về sau, người ta đếm được có 20 xác.
Hai hôm sau, vào lúc trời tối, các toán an ninh gọi mọi người ra sân, lấy dây điện thoại trói ké lại, rồi dùng dây kẻm gai xâu 20 người lại một xâu, và dẫn đi về phía Nam Giao.
Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, Cộng quân viện lý do chiến tranh sắp xẩy ra trong vùng nên ra lệnh cho dân chúng tập trung vào bệnh viện. Sau ba ngày, họ bảo đàn bà và trẻ con ngồi xuống, còn đàn ông đứng dậy. Sau đó, chúng đưa hai tên nằm vùng đến nhận diện. Hai tên này vừa mới được xổ tù khi Cộng quân chiếm thành phố. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa Phủ Cam và từ đó họ được đưa lên chùa Từ Đàm.
Tất cả những người bị giam ở chùa Từ Đàm đểu được lần lượt dẫn đi về phía Tây Nam và hạ sát tại những nơi khác nhau, kể cả ở Khe Đá Mài, cách Huế khoảng 26 cây số. Theo tạp chí Time ngày 31.10.1969, trong số các nạn nhân bị giết tại đây có 398 người là giáo dân Phủ Cam. Cách giết người của Cộng quân cũng đặc biệt. Cộng quân ra lệnh cho những người bị bắt phải đào hố, nói là để làm hầm trú ẩn tránh bom đạn, hoặc để làm mương dẫn nước cho dân chúng cày cấy. Sau khi đào xong, Cộng quân trói thúc ké tay chân nạn nhân và quăng xuống hố rồi lấp đất lại. Có người cho rằng Cộng quân phải chôn sống như vậy vì sợ bắn sẽ gây tiếng động và để lộ mục tiêu..
CON SỐ NẠN NHÂN
Trong cuốn “Công và Tội”, ông Nguyễn Trân cho biết: "Về phía dân chúng, có 5.800 người chết, trong đó có 2.800 người bị Việt Cộng giết và chôn tập thể: 790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán tội "cường hào ác bá", 1892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, hằng trăm thanh niên tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Đức và vợ, và một số người Phi Luật Tân."
Trong “Encyclopedia of the Viet Nam War”, David T. Zabecki ghi nhận rằng số thi hài nạn nhân tìm được trong các mồ chôn tập thể ở Huế là 2.810 người và hàng ngàn người bị mất tích..
Trong cuốn “The Vietcong Massacre at Hue” (Vintage Press, New York, 1976), Bác sĩ Elje Vannema, người có mặt tại Huế trong biến cố Tết Mậu Thân, cho biết theo tài liệu kiểm kê được qua 22 mồ tập thể, số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người, chia ra như sau:
Trường Gia Hội: 203 người; Chùa Theravada [Gia Hội]: 43; Bãi Dâu [Gia Hội]: 26; Cồn Hến [Gia Hội]: 101; Tiểu Chủng Viện: 6; Quận Tả ngạn: 21; Phía đông Huế: 25; Lăng Tự Đức và Đồng Khánh: 203; Cầu An Ninh: 20; Cửa Đông Ba: 7; Trường An Ninh Hạ: 4; Trường Văn Chí: 8; Chợ Thông: 102; Lăng Gia Long: 200; Chùa Từ Quang: 4; Đồng Di: 110; Vinh Thái: 135; Phù Lương: 22; Phú Xuân: 587; Thượng Hòa: 11; Thủy Thanh - Vinh Hưng: 70; Khe Đá Mài: 428.
Trong cuốn “Viet Cong Strategy of Terror” (tr. 23 đến 29) Giáo Sư Douglas Pike cho biết qua vụ Tết Mậu Thân ở Huế, có khoảng 7.600 nạn nhân của Cộng Sản, trong đó 1.946 người bị mất tích.
TẠI SAO PHẢI TÀN SÁT?
Những sự kiện cụ thể chúng tôi vừa trình bày trên cho thấy:
(1) Việc chiếm Huế làm căn cứ địa cho MTGPMN là một quyết định được Hà Nội nghiên cứu kỹ càng và ra lệnh cho Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị Thiên Huế thi hành. Cán bộ thi hành cũng đã được huấn luyện trước. Do đó, không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương quyết định tàn sát mà không có lệnh từ trung ương.
(2) Đa số các cuộc thảm sát đã diễn ra trong thời gian từ 2 đến 12.2.1968, tức trong thời gian Cộng quân còn chiếm đóng Huế.. Các nạn nhân thường được kiểm tra hay xét xử rồi mới giết. Rất nhiều mộ tập thể đã được tìm thấy ngay trong thành phớ Huế, nhất là tại khu Gia Hội. Điều này cho thấy không phải vì bị vướng chân khi rút quân nên Cộng Sản mới tàn sát tâp thể để có thể rút nhanh như một số người đã biện hộ cho Cộng Sản.
(3) Đến tối 24.2.1968 Cộng quân mới ra lệnh rút quân toàn bộ khỏi Huế. Tài liệu của Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị Thiên Huế nói rằng có 23.702 tên quân địch, trong đó có 8.000 Mỹ, đã bị diệt, bắt sống và ra hàng (tr. 153). Như vậy số quân nhân Quân Lực VNCH và Mỹ đã bị tiêu diệt hoặc bắt sống lên đến khoảng 3 sư đoàn, trong khi đó số quân VNCH và Mỹ được dùng để tái chiếm Huế chưa đến 2 sư đoàn! Giả thiết tài liệu của Cộng quân là đúng và số người đã bị họ bắt đi theo đã bị giết tập thể để khỏi bị vướng chân..., vậy những người này đã được chôn ở đâu? Các cuộc tìm kiếm sau Tết Mậu Thân không cho thấy có các quân nhân VNCH và Mỹ được chôn trên đường rút quân của Cộng quân.
Chỉ có một trường hợp bị bắn khi Cộng quân rút lui là trường hợp những thanh niên bị bắt gia nhập quân MTGPMN. Những thanh niên không chịu đi theo đều bị bắn tại chỗ. Tại Gia Hội, người ta khám phá ra xác của 18 thanh niên bị bắn chết vì không chịu đi theo. Có khoảng 600 thanh niên vì sợ bị bắn phải đi theo họ.
Tóm lại, lập luận cho rằng các nạn nhân đã bị tàn sát vì làm vướng chân Cộng quân khi rút lui là hoàn toàn láo phét. Đảng CSVN đã duy trì kỷ cương rất chặt chẽ trong khi hành quân nên không thể có chuyện các cấp chỉ huy địa phương tự ý ra lệnh tàn sát tập thể như một số người đã biện minh cho Hà Nội. Phải có lệnh của trung ương, các cán bộ cấp dưới mới làm như vậy. Nhưng vấn đề được đặt ra là: Tại sao Đảng CSVN đã đưa ra quyết định tàn sát tâp thể như thế?
Có tác giả cho rằng sở dĩ Hà Nội đã đưa ra quyết định tàn sát tập thể vì lý do an ninh. Hà Nội muốn chiếm Huế và giữ Huế lâu dài như là một căn cứ địa của MTGPMN. Do đó, để bảo vệ an ninh trong vùng chiếm đóng, Hà Nội đã ra lệnh thanh toán tất cả những thành phần bị coi là cho thể gây nguy hại cho an ninh như tuyên truyền chống đối, quấy rối, làm nội ứng, hình thành các nhóm võ trang chống lại lực lượng chiếm đóng, v.v.
Giả thiết thứ hai là Đảng CSVN muốn tạo sự kinh hoàng trong quần chúng để mọi người hoảng sợ và tuân phục. Đây là chính sách mà Lénin đã áp dụng tại Liên Sô trước đây.
Trong quyển "The Unknown Lenin", ông Richard Pipes, Giáo sư Sử Học Nga thuộc Harvard University, ghi nhận rằng yếu tố lạnh người nhất là Lenin đã ra lệnh "tạo sự kinh hoàng" trong quần chúng trên toàn quốc. Hồi đầu tháng 9/1918, Lenin viết: "Cần thiết và khẩn cấp chuẩn bị cho sự kinh hoàng, một cách bí mật". Tháng 8/1918, Lenin chỉ thị cho bọn cầm quyền tỉnh Penza phải treo cổ ít nhất 100 người, một cách công khai. Lénin truyền lệnh: "Hãy thực hiện chuyện này bằng một phương cách mà người ta sẽ thấy, từ xa hàng trăm dặm, run sợ, biết đến, và gào thét. Họ bị treo cổ, và sẽ treo cổ đến chết bọn địa chủ hút máu".
Đảng CSVN cũng bắt chước đường lối này của Lénin và cho áp dụng tại Huế trong Tết Mậu Thân, khi họ nghĩ rằng Cộng quân có thể chiếm giữ Huế lâu dài. Có lẽ giả thiết này đúng hơn cả.
Ngoài những tiêu chuẩn thanh toán mà Hà Nội đã đưa ra, các nhóm Phật Giáo đấu tranh chống VNCH bỏ đi theo MTGPMN từ năm 1966, khi trở lại đã đi tìm và thanh toán những người trước đây không đồng ý hay chống lại chủ trương của họ, đặc biệt là những người Công Giáo.
Nhưng Hà Nội đã có nhận định sai lầm về quyết tâm của Quân Lực VNCH và sự hưởng ứng của quần chúng Phật tử ở Huế. Quân Lực VNCH và đồng minh đã xử dụng hỏa lực tối đa, bất chấp những sự hư hại cho cố đô, để đánh bật Cộng quân ra khỏi thành phố, còn quần chúng Phật tử chỉ có một số nhỏ theo họ. Do đó, quyết định chiếm Huế làm căn cứ địa đã thất bại.
Điều tai hại là nhà cầm quyền Hà Nội đã nhận ra rằng trong cuộc đấu tranh cướp chính quyền năm 1966, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã kích động lòng hận thù Thiên Chúa Giáo như là động lực đấu tranh. Do đó, sau khi chiếm Huế, Cộng quân đã xử dụng các thành phần thuộc “Đoàn Thanh Niên Phật tử Quyết tử” của Giáo Hội Ấn Quang đã đi theo họ, quay trở lại làm lực lượng tiên phong trong vụ tàn sát, đặc biệt nhắm vào những người Công giáo, công chức, cảnh sát và quân nhân VNCH. Đây là vấn đề sẽ được chúng tôi trình bày trong một bài khác.
Ngày 15.2.2018
Lữ Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét