Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 27 tháng 1, 2018

Những Người Lính Năm Xưa. -, Lời cám ơn



Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối ! Vết thương còn nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "
Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "<!>
Trong lòng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK !
Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên kia..."
Đối xử với tao không một chút thân tình...!
Mày biết không !
Tao tìm đường về quê nhìn không thấy ánh bình minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
Nhìn hai đứa con ngồi trong căn chòi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gío lốc.
Cái hay là: Vợ tao dấu đi đâu tiếng khóc.
Còn an ủi cho tao,một thằng lính què !

Tao đóng hai cái ghế thấp,nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau,thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn,rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá gì chuyện gío sương...

Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nhìn tao...nuớc mắt bả...rưng rưng !

Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được gì cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !

Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi. Hơn mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu !

Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
Còn "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương...
Còn rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng mình uống cho đến...điếc !

Trang Y Hạ

 
 
Năm xưa chồng tôi là người lính, Nơi vùng lửa đạn, Mồ hôi anh đã đổ, Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long, Đến Thừa Thiên, Quảng Trị. Rồi một ngày anh gục ngã, Tại chiến trường Tây Ninh. Tôi góa phụ xuân xanh, Con thơ chưa tròn tuổi, Tiễn đưa anh lần cuối, Về nghĩa trang quân đọi Biên Hòa Đã bao nhiêu năm qua,.... Bây giờ, Tôi ở nơi xa, Đã có cuộc đời khác. Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc, Thương tiếc xa xăm. Tôi về tìm mộ bia anh giữa chập chùng cỏ dại cây hoang, Để thắp một nén nhang, Nhớ người lính của một thời chinh chiến, Nhớ người chồng của một thuở gối chăn. Năm xưa chồng tôi là người lính, Một lần hành quân, Anh đã bị thương, Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường. Ôi, mảnh đất không tên, Đã giữ chút máu xương người lính trẻ. Đã bao nhiêu năm qua, Bây giờ, Anh thương binh tàn tạ. Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy mình xa lạ, Bạn bè anh, Kẻ mất người còn, Kẻ quên người nhớ, Kẻ vô tình giữa dòng đời vất vả. Năm xưa chồng tôi là người lính, Nồng nhiệt tuổi đôi mươi, Lần đầu tiên ra chiến trường, Anh mất tích không tìm thấy xác. Mẹ anh khóc cạn khô dòng nước mắt, Lòng tôi nát tan. Đã bao nhiêu năm, Vẫn không có tin anh, Anh ơi, dù quê hương mình đã hết chiến tranh, Tàn cơn khói lửa, Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ. Anh đã biết chưa? Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!! Năm xưa chồng tôi là người lính, Sống sót trở về sau cuộc đao binh, Sau những tháng năm tù tội, Bây giờ anh không còn trẻ nữa. Lìa xa quê hương, Sống ở xứ người. Những năm thánh chinh chiến đã đi qua, Nhưng vết thương đời còn ở lại,Trong lòng anh, Trong lòng những người lính năm xưa. Nguyễn Thị Thanh Dương
 

 


Nếu có ai biết người tác giả bài này thì xin cho gữi một lời cám ơn, vì vẫn còn thương nhớ đến những người đã hy sinh cho Miền Nam chúng ta.

Đến ngày nay, đã hơn 35 năm qua dễ mấy ai còn nhớ đến họ.

Xin thắp một nén nhang cho những bạn bè đã nằm xuống trong cuộc chiến vừa qua.
NHỮNG NGÔI MỘ PHỦ LÁ CỜ VÀNG
Tôi đã thấy những ngôi mộ phủ lá cờ vàng,
Trong nghĩa trang còn tươi màu đất mới,
Quê hương Việt Nam một thời lửa khói,
Người lính quên mình vì lý tưởng tự do.
Các anh hiên ngang chết dưới màu cờ,
Bỏ lại vợ hiền, đàn con thơ dại,
Những vành khăn tang bàng hoàng chít vội,
Nước mắt nào cho đủ tiễn đưa anh?
Có thể anh là người lính độc thân,
Chưa có người yêu, lên đường nhập ngũ,
Ngày mẹ già nhận tin anh báo tử,
Tuổi đời già thêm vì nỗi đớn đau.
Có thể anh vừa mới có người yêu,
Hẹn cưới nhau khi tàn mùa chinh chiến,
Tiền đồn xa chưa một lần về phép,
Anh đã ra đi mãi mãi không về.
Súng đạn vô tình làm lỡ hẹn thề,
Người yêu anh đã có tình yêu mới,
Khi trên mộ anh chưa tàn hương khói,
Trách làm gì!. Thời con gái qua mau.
Hỡi người tử sĩ dưới nấm mồ sâu,
Tiếc thương anh lá cờ vàng ấp ủ,
Nghĩa trang quân đội những ngày nắng gió,
Vòng hoa tang héo úa chết theo người.
Những ngôi mộ phủ lá cờ vàng. Xa rồi,
Xác thân anh đã tan vào cát bụi,
Nhưng lịch sử vẫn còn ghi nhớ mãi,
Miền Nam Việt Nam cuộc chiến đấu hào hùng.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( Jan.19-2010)
 





 
Anh chưa hề thua trận
Anh chưa hề rơi gươm
Tháng Tư, anh gãy súng
Bỏ cuộc trong hờn căm.

Cuộc chơi đầy gian lận,
Tàn nhẫn và đau thương
Cuộc chơi đầy nước mắt
Nước mắt tràn quê hương

Cuộc chơi nhiều phản trắc
Đồng minh cũng bỏ rơi
Cuộc chơi đầy chết chóc
Chiến trường, anh lẻ loi

Tháng tư, anh gãy súng
Bóng tối ngập quê nhà
Hòa bình cho tan nát
Thống nhất tạo chia xa

Tháng tư, anh gãy súng
Miền Nam buồn xác xơ
Đổi đời, dân than khóc
Lầm than trên quê xưa

Bạn bè dăm bảy đứa
Lác đác tìm tin nhau
Coi ai còn, ai mất
Giữa cuộc đời hư hao

Tháng tư buồn da diết
Tháng tư, người mất nhau
Ngày tháng tư thật chậm
Đếm thời gian, lòng đau

Anh vẫn là hào kiệt
Hy sinh cho quê hương
Dù mang thân ngã ngựa
Anh vẫn còn tâm hồn !!!

Lê Văn Thắng (4/2010)


Thân tặng các bạn đồng môn khóa 10B/72.
Các bạn Phạm Hòa, Dong Quang Le, Tuấn râu, Quách Năm và các bạn mới gặp lại.
Huynh Trưởng Vĩnh Thao khóa 9 B/72

Ba mươi lăm năm ngày ấy ta chia tay,
Cung kiếm bên mình nay đành dang dở.
Chinh chiến tàn sầu mộng kiếp chinh nhân,
Đâu còn nữa sa trường quân mạc tiếu

Ba mươi lăm năm ngày ấy ta xa nhau,
Tang bồng hồ thỉ tung cánh cuộc đời ta,
Vẫy vùng muôn phương mộng chốn giang hồ,
Anh biên giới, tôi vùng sông nước,
Anh cao nguyên, tôi băng rừng lội suối,
Dâng hiến non sông cả cuộc đời .

Ba mươi lăm năm ngày ấy đã xa,
Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp,
Bạc con tim, bạc cả mái đầu,
Cười rung nhẹ nuốt hận thương đau,

Ba mươi lăm năm ngày ấy đã xa,
Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp,

Mời Anh cạn chén bồ đào,
Giang san một mối người xưa đâu rồi?
Lệ rơi, cạn chén nghẹn ngào
Say tình huynh đệ say đời buồn đau,
Anh đi gởi tấm thẻ bài,
Là đây kỷ vật năm nào Anh trao
Mời anh cạn chén quang bôi,
Bạc đầu chiến sỹ, nay đời nổi trôi

Ba mươi lăm năm ấy ta đã gặp,
Đừng quên nhé, anh em ta lại gặp,
Đủ bạn bè thương nhớ lại đầy vơi…





1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh - buồn nôn - phi lý!!!”

Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc

Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội nghiệp nhưng đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc

Sài Gòn của tôi - của chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc

3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…

4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
Để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch

Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh, ti-vi, cassette, radio…

Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ

Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?

5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
Để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa

Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở

Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?

Đỗ Trung Quân (1982)




" ĐÂY LÀ TIẾNG NÓI NƯỚC VIỆT NAM
PHÁT THANH TỪ THỦ ĐÔ SAIGÒN ..."
Cho đến nay tiếng nói ấy vẫn còn
Vang vọng mãi trong trái tim Ngưòi Lính .

Là hình ảnh của một thời ổn định
Là tiền đồn của Thế Giới Tự Do
Của miền Nam nước Việt rất ấm no
Là thành luỹ mang hồn thiêng sông núi .

Người Lính trẻ đã một thời giong ruổi
Đem tình người, tình lính trấn biên cương
Vẫn một lòng chung thủy với quê hương
Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng .

Người Lính chúng tôi tuy không Sinh Vi Tướng
Cũng hiên ngang chấp nhận Tử Vi Thần
Trọn một lòng chỉ vì Nước ,vì Dân
Dâng hiến cả đời mình cho Tổ Quốc .

Từ Quảng Trị rét căm mùa gió bấc
Đến Cà Mau mưa lũ ngập đồng sâu
Vết giày Saut lội bất cứ nơi đâu
Để mang lại Tin Yêu và Lẽ Sống .

Người Lính chúng tôi mang trái tim hào phóng
Của tuổi đời đẹp nhất : lúc đôi mươi
Làm nguồn vui nơi tuyến đầu lửa bỏng
Trong gian truân vẫng nồng ấm nụ cười .

Dù đôi lúc có hoang mang , phẫn nộ
Hay chán chường vì dấu ấn chiến tranh
Nhưng nỗi buồn cũng tan biến rất nhanh
Khi đối diện với kẻ thù ngoài mặt trận .

Rồi cũng đến lúc chào thua số phận
Khi tàn vong đành Nước mất , Nhà tan
Vì thế cùng , lực tận , chỉ thở than :
Thân nhược tiểu, xót thầm , ôi ngang trái !

Người Lính chúng tôi không hề chiến bại !
Chỉ chào thua định mệnh đã an bài
Bởi cô thế đành nương thân hải ngoại
Chờ bình minh quang phục của ngày mai .

HUY VĂN





Khi tôi chết trên bước đường lưu lạc
Xin mọi người đừng quấn mảnh khăn tang
Phủ thân tôi danh dự lá cờ vàng
Ba sọc đỏ nối liền Trung Nam Bắc
Khi tôi chết đừng chôn tôi xuống đất
Lạnh đáy mồ biết ai đến viếng thăm
Những đêm trăng bên mộ xác tôi nằm
Hồn ẩn hiện thẩn thờ khi đêm xuống
Khi tôi chết đừng chôn bên thữa ruộng
Trên cánh đồng sỏi đá của miền Trung
Nơi ngàn thu những chiến sĩ anh hùng
Đã yên giấc dưới bóng cờ chiến đấu
Khi tôi chết đốt tôi thành bụi trấu
Rãi tro tàn trên biển Thái Bình Dương
Để những ngày trôi giạt mất quê hương
Được an ủi linh hồn người xa xứ
Khi tôi chết tên không vào chiến sử
Như bao người vì tổ quốc hy sinh
Đừng ghi tôi vào bia mộ hiển linh
Cho tôi được an lòng trong cỏi chết

SVSQ Lê Chiến khóa 8/72









Tôi trở lại viếng thăm người Lính cũ
Từng một thời chia xẻ nổi buồn đau
Cuộc chiến tranh uất hận đến ngàn thâu
Deo dang mai bao năm còn hờn tủi
Lôi Hổ chết, ai người xây nắm mộ
Lá cây rừng phũ lên xác thân anh
Sông gian nguy đói khỗ giữa rừng xanh
Ôi nghiệt ngả bao linh hồn oan khuất
Biệt Hải chết tay ôm mìn kích nổ
Giữa đêm trường lạnh buốt thấu xương da
Tàu địch quân thũng đấy máu chan hòa " Vulcan "
Nhuộm đỏ thắm trên dòng sông vĩnh biệt
Hoa dù nở đêm trăng sao lấp ánh
Nấm xương tàn tô điễm dãi non quê
Mộng chiến chinh chưa thõa mãn lời thề
Vì lý tưởng,vì tự do độc lập
Quê hương Mẹ cảnh thanh bình êm ả
Cánh bườm giăng lộng gió thủy triều dâng
Bước li hương ai khóc hận giữa đêm trường
Ai vinh hiển mong Công hậu, Khánh tường.
Chiến si hề : " thề ra đi không trở lại "
Chí làm trai thề : " lấy da ngựa bọc thay "
Hảy quên đi chuyện DANH LỢI thế gian này
Nhìn thế sự như làn mây bây gió thõang.
Thanh Tâm 2004



Posted by Lực Lượng Đặc Biệt và Nha Kỹ Thuật Việt Nam Cộng Hòa at 7:54 PM 0 comments 

Pleiku của anh

( Cảm tác từ bài viết "Pleiku nắng buị mưa bùn" của Nguyễn Dân và những hình ảnh về Pleiku của Hoa Phạm).
Pleiku của anh những ngày nắng bụi,
Trên con đường dài vắng chuyến xe qua,
Đường đất hoang sơ không phố, không nhà,
Chỉ có trời mây, hàng cây rất thấp.
Bụi Pleiku, bụi một màu đỏ gạch,
Anh đi qua thị trấn buồn ngẩn ngơ,
Chiều chơi vơi sương mù mịt biển hồ,
Hồ không đáy? nước không bao giờ cạn.
Anh lính mới, vừa về vùng lửa đạn,
Đóng quân ở đây phố lạ, người dưng,
Thành Pleime heo hút gío xa xăm,
Phi trường Cù Hanh, ai đi ai đến?
Những ngày Pleiku mưa dầm rả rích,
Thị trấn buồn ảm đạm ngủ trong mưa,
Mới hôm qua nắng gío cuốn bụi mờ,
Hôm nay đường phố mưa bùn tội nghiệp.
Anh lính trẻ lang thang trong phố ướt,
Qua mái hiên che, qua vũng nước buồn,
Chiếc xe nhà binh đậu ở ven đường,
Người ta sống giữa chiến tranh và chết chóc.
Pleiku phố nhỏ, những con đường ngắn,
Đầu đường cuối đường không đủ mỏi chân,
Đường Hoàng Diệu anh qua đã bao lần?
Bụi đất đỏ theo anh về quen thuộc.
Bụi theo anh đường hành quân xuôi ngược,
Thôn xóm xác xơ hay những buôn làng,
Cô gái Ê Đê thấp thóang nhà sàn,
Anh mơ một đêm rượu cần chếnh chóang.
Pleiku của anh một thời chinh chiến,
Đi đâu về đâu vẫn nhớ nơi này,
Ai trách Pleiku tẻ nhạt, lưu đầy?
Ai lưu luyến khi chia tay phố núi?
Đầu sóng ngọn gío anh còn ở lại,
Trận địa Pleiku có lúc kinh hoàng,
Vẫn yếu mềm ngơ ngẩn một dáng em,
Sống và chết, Tình yêu và nỗi nhớ.
Bao nhiêu năm, bao mùa rừng thay lá,
Bụi thời gian không che khuất bụi đường,
Vẫn còn trong anh nắng bụi mưa bùn,
Thành phố núi một góc đời trai trẻ.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( April, 2011)
Posted by Lực Lượng Đặc Biệt và Nha Kỹ Thuật Việt Nam Cộng Hòa at 7:32 PM 0 comments 

Friday, December 24, 2010

Giải Phóng

Em trót sinh ra sau ngày "giải phóng"
Và lớn lên khi đất nước "thanh bình"
Nhưng cuộc đời sao vất vả điêu linh
Mẹ buôn gánh bán bưng nuôi con dại

Em đi học, qua đồng khô cỏ cháy
Trời quê hương bàng bạc áng mây buồn
Đường chiều về leo lét ánh tà buông:
- "Con đói quá, mẹ ơi trời sắp tối!"

Sáng đi học bụng em còn thấy đói
Cô dạy em phải yêu kính "bác" Hồ
Em hỏi: - " 'bác' là ai vậy, hở Cô?"
Cô bảo: -"Nhờ 'bác', đảng ta 'CHIẾN THẮNG '!"

Em không hiểu, nhưng cúi đầu im lặng
Mà trong lòng thắc mắc mãi không thôi
"CHIẾN THẮNG" gì? Sao khổ qúa đời tôi,
Nhà, họ lấy, phải đi vùng kinh tế!
Ba mươi năm, lớn lên đời vẫn thế
Trời quê hương còn đó áng mây buồn
Vẫn từng ngày, vẫn kiếp sống đau thương
Em thay mẹ: Đời bán bưng buôn gánh!
Em tự hỏi nếu đảng không "CHIẾN THẮNG"
Nước Việt Nam có chậm tiến thế nầy?
Người dân hiền đâu ngậm đắng nuốt cay
Bị "xuất khẩu" sang xứ người lao dịch!

Em thầm hỏi: "Ai đây là kẻ địch?"
Mỹ, Ngụy, bác Hồ, hay cộng đảng ta? Ngụy bây giờ là khúc ruột phương xa Mỹ  thầy, làân nhân kinh tế!

Nước Việt thụt lùi bao thế hệ
Từ môi sinh cho đến đạo làm người:
Chính phủ chỉ là một lũ đười ươi
Bọn ích kỷ, phường buôn dân bán nước!

Xã hội xuống dốc nhanh không tưởng được
Quan bạo tàn, tham nhũng đến vô lương
Chuyên hối lộ, cướp nhà, chiếm hết ruộng nương
Dân thấp cổ kêu trời cao chẳng thấu!

Đảng của "bác" biến nước ta lạc hậu
Dân Việt Nam nghèo nhất cõi năm châu
Những huy hoàng ngày cũ nay còn đâu
Phụ nữ Việt bán thân ngoài muôn dặm!

Ôi tổ quốc, ôi quê hương nhung gấm
Hỡi địa linh, nhân kiệt hãy vùng lên!
Giành TỰ DO, DÂN CHỦ với NHÂN QUYỀN
Quyết đập đổ NỘI THÙ: phường cộng sản

Hết cộng nô, trời Việt Nam lại sáng
Đàn con Hồng cháu Lạc đứng cao lên
Xây đấp non sông, bờ cõi vững bền
Đó là lúc toàn dân ta CHIẾN THẮNG!

Hương Sài-Gòn
[Ad: Bravenet Counter Stats]
Posted by Lực Lượng Đặc Biệt và Nha Kỹ Thuật Việt Nam Cộng Hòa at 8:13 PM 0 comments 

TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN


1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh - buồn nôn - phi lý!!!”

Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc

Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội nghiệp nhưng đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc

Sài Gòn của tôi - của chúng ta.
Có tiếng cười - Và tiếng khóc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét