Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

ĐEM TÂM TÌNH VIẾT LỊCH SỬ THƯ THỨ BA GỬI NHÀ VĂN TRẦN THỊ BÔNG GIẤY - BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

(hình minh hoạ)
Thành phố Westminster, Quận Cam, California,
Ngày 19 tháng 8 năm 2017.
Em Trần Thị Bông Giấy thân mến,
Anh từng nghe thiên hạ nói: “Người thầy thuốc mà lầm thì giết chết một con bệnh. Người làm chính trị mà lầm thì giết chết một thế hệ. Người làm văn hóa sai lầm thì giết hại muôn đời”. Nghĩ cho kỹ, đó là một nhận định rất đúng với thực tế lịch sử.<!>
Người Tàu phát minh nhiều dụng cụ khoa học trước tiên trong nhân loại, nhưng các triều đại vua chúa Tàu lấy Nho giáo của ông Khổng Tử để cai trị dân, khiến cho nền văn minh nước Tàu dừng tại chỗ, lại còn bị các dân tộc chung quanh mà người Tàu coi là mọi rợ (như quân Mông Cổ, quân Mãn Thanh) đô hộ hàng trăm năm. Như vậy, ta có thể suy ra, nền văn hóa Nho Giáo ắt có vấn đề sai lầm.
Các vua nước ta từng đánh đuổi quân xâm lược Tàu ra khỏi biên thùy, nhưng lại áp dụng triệt để nền văn hóa Nho giáo của Tàu, nên nước mình cũng bị lâm vào tình trạng “chậm lớn”. Đó là lời giải đáp cho cô giáo Trần thị Lam ở Hà Tĩnh, tác giả bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh?”.
Một người như anh chỉ học được năm ba chữ Hán với linh mục Nguyễn văn Thích từ hồi còn nhỏ mà dám kết tội Nho giáo làm trì trệ nền văn minh Tàu và Ta, thì không sao tránh khỏi bị độc giả cho anh là loại “ếch ngồi đáy giếng” mà dám “coi trời bằng vung”.
Hồi còn ngồi ở Trung Học Phổ Thông, anh có nhìn thấy bộ sách Nho Giáo đồ sộ của Cụ Trần Trọng Kim, nhưng sợ mình nuốt không trôi nên không đọc.
Về sau, anh có đọc bài nhận định của nhà văn Phan Khôi viết về bộ sách đó, và đọc xong bài “Ảnh Hưởng Nho Giáo Vào Nước Ta”(cũng của cụ Phan), anh đã lờ mờ thấy được cái không ổn của Nho Giáo. Bởi vì nhà văn Phan Khôi là một nhà nho uyên thâm, từng đọc sách Khổng Tử và sách của Bách Gia Chư Tử từ năm lên sáu, cho nên lập luận của Cụ rất thuyết phục về sự tác hại của Nho Giáo. Điều quan trọng nhất là Cụ Phan đã dẫn chứng nhiều cuộc trao đổi giữa Khổng Tử với môn sinh để chứng minh Nho Giáo  vô thần, điều mà Cụ Trần Trọng Kim lại cho Nho Giáo là hữu thần.  
Cụ Phan viết, tuy Cụ “là đệ tử chân truyền của Nho Giáo, từ Hán Nho đến Tống Nho, nhưng Cụ lại khuyên dân Việt Nam ta phải dứt khoát từ bỏ Nho Giáo một cách không thương tiếc để tiến đến nền văn minh Dân Chủ tôn trọng Nhân Quyền của phương Tây.”
Rõ ràng Cụ Phan là nhà cách mạng văn hóa nhìn xa trông rộng. Cụ còn là người khai sinh thơ mới và cổ vũ phong trào thơ mới. Bài “Tình Già”, em nhớ không?
Thêm một yếu tố nữa:
Gần đây, hai ông Tàu chính cống là Lưu Á Châu (Liu Yazhou) (một vị Thượng tướng đang tại chức trong chế độ cộng sản Tàu) và ông Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) (nhà tranh đấu nhân quyền, được giải thưởng Nobel Hòa Bình) đã đồng loạt kết tội Nho Giáo. Trong một bài tiểu luận, Lưu Hiểu Ba so sánh Khổng Tử giống như Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa thì mình không còn nghi ngờ gì nữa để kết luận nền văn hóa Nho Giáo là nguyên nhân làm cho dân nước mình “bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm” như lời cô giáo Trần thị Lam than thở.
Chủ nghĩa Karl Marx đã bị nhân loại ném vào thùng rác lịch sử, mà nay cộng sản Tàu đang chủ trương phục hồi và xiển dương Nho Giáo của Khổng Tử tại chính quốc và xuất cảng ra thế giới, thì cũng giúp cho chúng ta hiểu thêm rằng giữa Khổng Tử và Karl Marx có điểm tương đồng ở chỗ cả hai đều khiến cho nhà cầm quyền “muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ” và đẩy lùi nền văn minh nhân loại.
Cụ Phan Khôi lập luận rằng “từ khi triều đình Nhà Nguyễn bỏ lối thi cử xưa, ít ai học chữ Hán, đạo Khổng dần dần tàn lụi; nhưng ảnh hưởng Nho Giáo vẫn còn đè nặng vào đầu óc của trí thức và tập quán của dân chúng. Bằng cớ là trí thức Miền Nam hoàn toàn theo Tây học, mang quốc tịch Pháp, nhưng cái chất Nho Giáo vẫn tồn tại qua nếp suy nghĩ và cách ứng xử của họ trong xã hội.”
*
      *
Do ảnh hưởng Nho Giáo, con không được phép cãi (biện bác) lời Cha Mẹ, học trò không được cãi lời Thầy Cô, dân không được phép cãi lời Vua Quan phán, dẫu cho lời dạy “bề trên” có sai trái. Cái phép tắc đó kéo dài từ đời này sang đời khác khiến cho não trạng của người trí thức Việt Nam dù thông mình tài giỏi đến đâu cũng không thể vượt qua hai chữ “học trò” ngoan ngoãn (bon élève, good pupil) như một giáo sư người Pháp (tên Monavon) đã đánh giá. Cái thói gia trưởng trong xã hội Việt Nam vẫn tồn tại, cho dù Nho Giáo đã suy tàn, làm cho khả năng suy luận của con cháu yếu kém.
Chế độ quân chủ chuyên chính trị tội “phạm thượng” bất cứ ông quan nào dám trái ý vua bằng hình phạt tử hình hoặc chung thân trong ngục tối. Dần dà, cách cai trị đó khiến cho giới sĩ phu trở nên hèn hạ, luồn cúi, nịnh bợ Vua để hưởng ân sủng; rồi tìm đường tiến thân bằng những gièm pha, đố kỵ, hãm hại lẫn nhau. Công thần Nguyễn Trãi bị “tru di tam tộc” dưới triều Lê; Nguyễn văn Thành bị bắt ép uống thuốc độc dưới triều Nguyễn đã chính là hai bằng chứng cụ thể khởi sinh từ đám quần thần xúc xiểm tâu bẩm lên Vua.
Chế độ quân chủ chuyên chính của Tàu hay của Ta đã tạo nên một xã hội bề ngoài có vẻ ngăn nắp, trật tự, ổn định, tuân phục, nhưng bên trong thì bao giờ cũng muốn phản kháng. Cho nên Tàu và Ta là hai mảnh đất tốt cho hạt giống cộng sản (bịp bợm hứa hẹn Thiên đường) nẩy mầm. Mặc dù giai cấp trí thức được nhà cầm quyền ưu đãi và nhân dân kính trọng, nhưng trong thâm tâm họ vẫn muốn có cuộc cách mạng đem lại công bằng xã hội. Bởi thế, một số trí thức thuộc dòng dõi Hoàng tộc hoặc thuộc dòng dõi danh tiếng Nguyễn Khoa, Hồ Đắc, Thân Trọng, Hà Thúc ở Huế đi theo cộng sản là vậy!
Hồ Chí Minh hô hào cách mạng, nhưng hành động chẳng khác nào Hoàng Đế. Giáo sư Trần Đức Thảo kể:
“Một hôm có cán bộ lễ tân đến báo cho biết ngày mai sẽ được Hồ Chí Minh cho phép tiếp kiến. Người cán bộ đó dặn Trần Đức Thảo phải đứng xa Hồ ba thước, không được phép mở lời hỏi thăm sức khỏe của Người, không được phép đưa tay ra trước để bắt tay Người, không được xưng Tôi (tức là phải xưng con?) và chỉ trả lời những câu hỏi của Người thôi” (tức là không được phép đặt câu hỏi).
Vậy Hồ Chí Minh đâu khác Tần Thủy Hoàng khinh miệt trí thức, đốt sách chôn sống học trò?
Xưa kia các nhà Nho theo phò Chúa Nguyễn Phúc Ánh cầu viện quân Xiêm La, xin khí giới Pháp để đánh đổ Nhà Tây Sơn mà không thấy trước rằng “hễ lãnh tụ đi mượn sức mạnh ngoại bang nào để giành ngai vàng, thì trước sau gì nhân dân sẽ rơi vào vòng nô lệ ngoại bang đó”.
Giáo sư Tạ Quang Bửu là người theo Tây học, thông minh xuất chúng về các bộ môn Toán học, Vật lý học, Triết học; lại nói và viết thành thạo nhiều ngoại ngữ. Ông Bửu là Thứ trưởng Quốc Phòng, thay mặt Bộ trưởng Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp, đặt bút ký vào Hiệp định Genève năm 1954 chia đôi Đất Nước.
Ông Bửu đã cùng tầng lớp trí thức ưu tú của ta phục vụ hết mình cho cái chế độ chủ trương “đào tận gốc, trốc tận rễ trí thức”và “Chống Mỹ Cứu Nước”, mặc nhiên trở thành kẻ đồng lõa với Hồ Chí Minh, làm tay sai Nga Tàu. Do đó, VN ắt sẽ rơi vào vòng nô lệ Tàu, (Giống như Gia Long thành công trong sự cầu viện thực dân Pháp diệt nhà Tây Sơn, cuối cùng dân tộc bị rơi vào sự đô hộ của Pháp trong 80 năm.). Mang danh trí thức nhưng các ông này đã không chịu học bài học lịch sử!
Giá như các nhà trí thức Việt Nam thời bấy giờ cảnh báo cho dân biết “thà bị thằng Tây đô hộ còn hơn bị thằng Tàu đô hộ” thì Hồ Chí Minh làm sao có thể lùa dân ta vào chủ nghĩa cộng sản để phải mang nỗi nhục mất nước và mất toàn bộ phẩm giá làm người như ngày hôm nay? Trí thức của mình ngu, nên dân mình không lớn được là vậy!
Hồ Chí Minh nhờ binh lính và vũ khí Tàu mà chiến thắng trận Điện Biên Phủ. Dù Hoa Kỳ giúp Pháp để Pháp thắng trận Điện Biên Phủ thì cuối cùng cộng sản vẫn là kẻ chiến thắng, do bởi chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời và kinh tế nước Pháp đã kiệt quệ trong việc phải lo đối phó với thuộc địa Algérie khi ấy cũng đang nổi dậy.
Có ba quốc gia trên thế giới lâm vào hoàn cảnh đất nước bị chia đôi. Đó là Đức, Triều Tiên và Việt Nam. Cả ba đều được Hoa Kỳ ra tay giúp ngăn chặn làn sóng Đỏ, mà chỉ có Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản; còn Đức Quốc thống nhất trong tự do và Hàn Quốc trở nên giàu mạnh. Chúng ta phải tự hỏi tại sao, đúng không?
Em Trần Thị Bông Giấy thân mến,
Trước khi trả lời, anh xin thuật mẩu chuyện sau:
Ngày 28 tháng 8 năm 1988 trong cuộc họp thống nhất đảng Đại Việt tại vùng vịnh San Francisco, có sự tham dự của các lãnh tụ hàng đầu như bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, bác sĩ Đặng Văn Sung, kỹ sư Hà Thúc Ký, Đại sứ Bùi Diễm, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, kỹ sư Cung Đình Quỳ và các cán bộ cao cấp như giáo sư Nguyễn Văn Canh, Đặng Văn Đệ, Đào Nhật Tiến, Lê Tấn Trạng, và anh.
Sau nghi thức khai mạc, mọi người ra ngồi vào chiếc bàn dài để nghe kỹ sư Cung Đình Quỳ, đồng chí cao niên nhất, mở lời phát biểu đầu tiên. Tuy đã 92 tuổi, nhưng Cụ Quỳ còn tráng kiện, minh mẫn, hùng hồn và đặc biệt tiếng nói rất dõng dạc. Anh có cảm tưởng Cụ là hình ảnh Đảng trưởng Trương Tử Anh hiện về để hài tội chia rẽ giữa các đồng chí của mình. Nghe Cụ, các anh lớn tuổi, lớn chức rưng rưng khóc. Cuối cùng Cụ Quỳ nói:
“Từ nay, tôi yêu cầu các đồng chí phải đoàn kết, gắn bó, để cùng nhau phất ngọn Cờ Đại Việt giải phóng Việt Nam”.
Các anh lớn thuộc hàng lãnh tụ bắt tay nhau, bày tỏ sự hối hận một cách chân thành và cam kết sẽ từ bỏ căn bệnh chia rẽ. Rồi lần lượt các đồng chí khác phát biểu một cách hiền hòa.
Riêng anh, tuy kém tuổi đời, tuổi đảng hơn các anh, nhưng anh dám phê bình các đồng chí lãnh tụ về nạn chia rẽ Trung Nam Bắc một cách thẳng thừng và kết luận như sau:
“Tôi hết sức đồng ý với lời quở trách của đồng chí niên trưởng Cung Đình Quỳ đi với các đồng chí lãnh tụ, nhưng có một điểm tôi xin phép không đồng ý”.
Nói tới đó, anh ngưng.
Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn về anh, chờ đợi. Anh nói tiếp:
Tôi không đồng ý chỉ phất ngọn Cờ Đại Việt, mà phải là ngọn Cờ Dân Tộc bao gồm tất cả đảng phái Quốc Gia để giải phóng Việt Nam. Chúng ta phải đoàn kết toàn dân; chứ không phải chỉ đoàn kết với những đồng chí trong đảng Đại Việt mà thôi. Căn bệnh Đảng ta, cá nhân ta còn khắc sâu trong tư tưởng, thì không thể làm chuyện đoàn kết với ai được”.
Mọi người đều im lặng, không một ai lên tiếng phản bác lý lẽ mà anh đưa ra. Bầu không khí buổi họp trở nên căng thẳng. Đồng chí chủ nhà (Trung tá Nguyễn Quan Vĩnh, người bạn phi công cùng khóa với anh) đề nghị ngưng buổi họp vì đã tới giờ ăn trưa. Thức ăn nhẹ, nước uống được bày ra trên chiếc bàn dài đặt giữa sân. Bác sĩ Đặng Văn Sung (người anh thúc bá của anh) vẫy anh lại và nói:
“Cái thói nhà binh bộc trực của chú vẫn không bỏ. Lời chú phát biểu vừa rồi là đúng với sự thật, nhưng làm buồn lòng anh Hoàn, anh Ký và anh Huy lắm đấy”.
Anh lễ phép đáp:
“Thưa anh, cuộc họp mặt hôm nay để mổ xẻ căn bệnh chia rẽ trong đảng, đã là quá trễ. Đáng lý nó phải xảy ra sau khi đồng chí Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống. Em rất biết cách nói những lời hoa mỹ để làm đẹp lòng các anh lớn; nhưng đây là cuộc mổ xẻ căn bệnh, ắt phải chịu đau đớn thì mới dứt bệnh”.
Bác sĩ Sung nhẹ nhàng:
“Anh biết chú nhiệt tình, nhưng cách nói khôn khéo thì dễ mang lại kết quả hơn”.
Một lần nữa anh lễ phép đáp:
“Thưa anh, em tự biết, với cá tính thẳng thắn, em không thể làm chính trị, nên chỉ muốn làm cách mạng để đổi thay vận mệnh Đất Nước. Em mong anh tha lỗi”.
Sau cuộc họp đó, anh không còn được Đảng thông báo cho biết thời gian và địa điểm phiên họp kế tiếp. Đảng Đại Việt Thống Nhất thành hình dưới sự lãnh đạo của bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và kỹ sư Hà Thúc Ký làm Đồng Chủ TịchNghĩa là không ai chịu làm Phó cho ai. Chẳng bao lâu, họ ra tuyên cáo khai trừ lẫn nhau! Thật đáng xấu hổ!
Trả lời câu hỏi: “Tại sao Việt Nam Cộng Hòa bị rơi vào tay cộng sản” là một lần nữa anh mổ xẻ vấn đề. Tất nhiên mổ xẻ hay nhổ cái răng không có thuốc tê, ắt đau đớn lắm. Anh rất ý thức rằng viết bức thư này cho em thì mình sẽ hứng lấy búa rìu dư luận từ nhiều phía, nhất là từ phía không muốn nghe SỰ THẬT.
Trí thức là bộ óc của dân tộc để dẫn dắt người dân tiến lên trình độ văn minh. Vua Chúa của ta dùng Đạo Nho cai trị, tổ chức thi cử để tuyển nhân tài phục vụ chế độ. Người đi học phải vận dụng trí nhớ để thuộc lòng chẳng những Tứ Thư Ngũ Kinh; nhớ tên các đời vua đã đành, mà còn phải nhớ tên các Ông Hoàng Bà Chúa để khỏi phạm trường quy. Thành thử trí thức Việt Nam đỗ đạt bằng cấp chỉ cốt làm quan to, hưởng nhiều bổng lộc, nhưng đa số có đầu óc thủ cựu, không dám canh tân vì sợ mất địa vị.
Do đó, trong khi Nguyễn Trường Tộ bị quần thần dưới triều vua Tự Đức gièm pha, nói lời “yêu ngôn hoặc chúng”; thì ông bạn học người Nhật (tên Yokohama) của tiên sinh được Minh Trị Thiên Hoàng và quần thần Nhật hưởng ứng canh tân. nên Nhật trở thành một xứ sở hùng cường, không bị ngoại bang đô hộ.
Còn Hồ Chí Minh lại du nhập vào đất nước cái chủ nghĩa cộng sản (vô thần, vô gia đình, vô Tổ Quốc, coi tôn giáo là thuốc phiện, chủ trương vô sản và triệt tiêu trí thức) thì lại được giới trí thức Việt Nam hăng hái tham gia.
Ngay như Thủ tướng Trần Trọng Kim, một nhà sử học thông thái, cũng không nhìn thấy cái chủ nghĩa cộng sản sẽ biến dân tộc mình thành trại súc vật (không được quyền có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận). Vì thế mà trước đề nghị của Fukuzawa Yukichi, một sĩ quan Nhật, dù đã bị Hoa Kỳ đánh bại, hứa sẽ giúp tiêu diệt toàn bộ đầu đảng và tay chân bộ hạ cộng sản”, Cụ Kim với cá chất ảnh hưởng Quân Tử Tàu, coi cộng sản cũng là anh em trong nhà, có thể giải quyết với nhau bằng tình huynh đệ (!), đã từ chối.
Anh hỏi Mẹ anh “tại sao Thầy (Bố) buồn rũ rượi khi nghe Cụ Kim từ chối lời đề nghị của viên sĩ quan Nhật?”, mẹ anh đáp rằng “Thầy buồn vì Hồ Chí Minh bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu cho thực dân Pháp, thông đồng với Pháp để tiêu diệt các nhà ái quốc VN, chứ không nhằm mục đích chống Thực dân. Hành động bán đứng Cụ Phan Bội Châu của Hồ Chí Minh chứng tỏ hắn làm bất cứ điều gì để đạt được mục đích, kể cả bán nước. Thầy con đã thấy trước tai họa do Cộng sản gây ra”.
Thầy anh có người bạn đồng nghiệp là Bác sĩ Lê Đình Thám. Ông này cứ dụ dỗ Thầy anh gia nhập đảng cộng sản, nhưng ông cương quyết từ chối, còn cảnh báo cho bạn biết rằng Cộng sản diệt tôn giáo, diệt trí thức thì dân tộc mình sẽ tiêu vong.”
Thầy anh thường căn dặn bốn người anh lớn của anh “đừng nghe theo lời tuyên truyền của cộng sản mà tham gia với họ.” Thế mà người anh cả của anh bị mắc kẹt với cộng sản vì có bà vợ là em gái của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, người trí thức có thân phụ bị cộng sản đấu tố cho đến chết mà vẫn nhắm mắt theo cộng sản!
Trí thức mà như thế thì người dân làm sao lớn lên được, phải không em?
Năm 1954, nước ta bị các thế lực quốc tế cắt đôi thành hai nước, có hai thể chế khác nhau:
 Miền Bắc theo quốc tế cộng sản, làm nghĩa vụ Người Lính Tiền Phong trong sự nghiệp nhuộm Đỏ toàn cầu.
 Miền Nam ĐƯỢC Hoa Kỳ nhảy vào, biến thành tiền đồn ngăn chặn làn sóng Đỏ. Chiến sĩ Miền Nam thành Người Lính Tiền Đồn.
Ở trên anh dùng chữ ĐƯỢC là bởi: nếu nước ta nằm ở một góc khuất của thế giới như Tây Tạng, Tân Cương thì Hoa Kỳ không nhảy vào để ta có 20 năm vừa chiến đấu, vừa xây dựng một nước tương đối có tự do; trong khi tập đoàn cộng sản Bắc Việt biến xã hội Miền Bắc thành một trại súc vật khổng lồ (có óc không được suy nghĩ; có mồm không được nói; ngoan ngoãn thì được cho ăn; phản đối thì bị bỏ đói cho đến chết!)
Trong quá khứ, kẻ thù xâm lăng nước ta bao giờ cũng phịa ra một khẩu hiệu để có chính nghĩa cho sự xâm lăng của họ. Ví dụ Nhà Minh lấy danh nghĩa “Phù Trần, diệt Hồ” (Quý Ly); nhà Thanh lấy danh nghĩa “Phù Lê, diệt Trịnh”; thực dân Pháp lấy danh nghĩa“Khai hóa dân tộc kém văn minh”; CSBV lấy danh nghĩa “Giải Phóng Dân Tộc” để xâm lăng Miền Nam VN.
Bọn cộng sản bôi nhọ nhân dân Miền Nam là bè lũ tay sai Đế quốc Mỹ, được bọn trí thức ngu đần phụ họa, khiến cho bản thân bọn này cũng bị điêu đứng sau khi Miền Nam thất thủ.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Tự Do của nhân dân Miền Nam hoàn toàn có CHÍNH NGHĨA, nhưng chính bọn trí thức ngu đó làm cho mất CHÍNH NGHĨA. Kết quả là chúng ta thua trận.
Ở trên không phải là “lời nói lấy được” của kẻ thua trận (như anh), mà là lời xác nhận của kẻ thù sau năm 1975. Điển hình:
 Nhà văn Dương Thu Hương chỉ thoạt bước chân vào một tiệm sách ở Miền Nam, liền thốt lên ngay câu nói: “Một chế độ man rợ đã chiến thắng một nền văn minh”.
 Vương Trí Nhàn, nhà phê bình văn học ở Miền Bắc sau khi nghiên cứu nền văn học Miền Nam, đã kết luận: “Miền Nam có nền văn học tự do, khai phóng; văn học Miền Bắc là một nền văn học minh họa”.
 Chưa hết, Tổng Bí thư Lê Duẩn còn thú nhận một cách trắng trợn hơn: “Ta đánh Pháp, đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”.
Vậy thử hỏi, “tại sao một nhà đại trí thức như cụ Hoàng Xuân Hãn lại khen ngợi Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam có công thống nhất Đất Nước?” Chẳng lẽ cụ Hãn không mở mắt (như triết gia Cộng Jean-Paul Sartre) sau khi chứng kiến hàng triệu người Miền Nam ào ra biển tìm đường thoát khỏi Thiên Đường Cộng Sản?
 Nhà cách mạng Phan Chu Trinh đưa ra câu khẩu hiệu: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” là nhằm mục đích dạy người trí thức những điều phải thực hành để cứu nước.
Nhưng tiếc thay! Hòn đá tảng Nho Giáo đè nặng trên dân tộc ta quá lâu, học hành đỗ đạt chỉ cốt làm quan, vinh thân phì da, nặng tinh thần quan liêu gia trưởng, ích kỷ, nên kém phần nhận thức cái đúng cái sai cho hướng đi của dân tộc.
Anh xin đề cập đến nhà đại trí thức, đại văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một nhà hoạt động văn hóa, chính trị “trùm chăn” khi Đất Nước đang đối diện với họa Cộng sản. Một nhà Tây học mà vẫn còn bị nhiễm văn hóa Nho Giáo đam mê thú chơi hoa lan!
Ông Nguyễn Tường Tam du học Pháp, đỗ bằng Cử nhân Khoa học.
 Về nước, ông không làm nghề liên quan đến Khoa học, mà cùng hai người em (Hoàng Đạo và Thạch Lam) làm báo Phong Hóa, chủ trương đả kích lề thói Hủ Nho của bọn Lý Toét, Xã Xệ.
 Rồi ông lập ra Văn Đoàn Tự Lực phê phán tấm bằng ban khen “Tiết Hạnh Khả Phong” để giải phóng phụ nữ. Nghĩa là ông muốn làm cuộc Cách Mạng Văn Hóa bằng đường lối “Khai Dân Trí” của nhà cách mạng Phan Chu Trinh.
Ngoài ra Nhất Linh Nguyễn Tường Tam còn hoạt động chính trị.
 Năm 1938, ông lập ra Đảng Hưng Việt, rồi năm 1939 đổi tên thành Đại Việt Dân Chính Đảng.
 Ông tham gia Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến, làm Bộ trưởng Ngoại Giao và Trưởng Phái đoàn thương thuyết Hiệp định Sơ bộ với Pháp ở Đà Lạt.
 Ông từ chối làm Trưởng Phái đoàn dự Hội nghĩ Fontainbleau và chia tay Việt Minh vì nhìn ra bộ mặt đểu cáng, lưu manh của tập đoàn cộng sản Hồ Chí Minh.
 Ông từng làm Bí Thư trưởng của Việt Nam Quốc Dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt)
Nói tóm lại, Nhất Linh không những là thủ lãnh Cách Mạng Văn Hóa, mà còn là thủ lãnh Liên Đảng Chính trị có uy tín nhất, vừa chống Cộng sản vừa chống Thực dân Pháp.
 Năm 1954, Hoa Kỳ nhảy vào Miền Nam ngăn chặn làn sóng Đỏ. Đó là một cơ hội bằng vàng để Nhất Linh cứu nước (bởi ông biết rõ hơn ai hết sự khốn nạn của bọn Thực dân Pháp chống phá chính phủ Miền Nam do Hoa Kỳ yểm trợ). Với thanh danh của một văn hào được cả nước kính trọng, yêu mến; với những hiểu biết sâu sắc về sự man rợ của chủ nghĩa Cộng Sản, thay vì Nhất Linh chỉ cần tiếp tục làm báo để khai sáng những thành phần trí thức u mê ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản thì ông lại lên Đà Lạt sống ẩn dật, vào rừng tìm hoa lan, bất kể vận số Đất Nước ra sao.
Vì thế, giáo sư Lê Hữu Mục mới gọi Nhất Linh là “chính khách trùm chăn”, và lời nhận xét này cũng được xác nhận bởi Nguyễn Tường Thiết (con trai út của Nhất Linh) trong một cuốn sách đã viết.
Giả như Nhất Linh có coi Tổng thống Ngô Đình Diệm là nhà độc tài thì ông cũng phải biết “cái độc tài của Ngô Đình Diệm vẫn tốt hơn cái chuyên chính vô sản của Hồ Chí Minh ở Miền Bắc” chứ! Trong khi Ngô Đình Diệm biết đưa những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình giáo dục thì Cộng sản Miền Bắc buộc nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn phải“treo cổ” hoặc dùng roi đánh nát các tác phẩm  những đứa con tinh thần của họ  để tiêu diệt “một nền văn hóa đồi trụy” do ông Nhất Linh chủ trương.
Sự tuyên truyền của CS, mạ lỵ, bôi nhọ phỉ báng, vu cáo Ngô Đình Diệm (tay sai Đế quốc Mỹ) là chuyện đương nhiên; nhưng còn ông Nhất Linh hẳn phải biết dữ kiện “Vua Bảo Đại cử ông Diệm làm Thượng thư Bộ Lại – chức Thủ tướng ngày nay  – mà ông Diệm yêu cầu Pháp thay đổi đường lối cai trị để chính phủ Nam Triều có thực quyền, nhưng Thực dân Pháp không chấp nhận, do đó ông Diệm lập tức từ chức” chứ?
Vậy ông Diệm đâu phải là người bán nước? Chỉ Hồ Chí Minh mới là kẻ làm đơn xin vào học Trường Thuộc địa để làm tay sai cho Thực dân nhưng bị Pháp từ chối, bèn đi làm tay sai cho Liên Xô, Trung Cộng để bán nước đó thôi!
Năm 1945, chính Cụ Trần Trọng Kim đề nghị vua Bảo Đại chọn ông Diệm làm Thủ tướng. Điều đó chứng tỏ Cụ Kim đánh giá ông Diệm “có khả năng lèo lái con thuyền quốc gia qua cơn sóng gió.”
Phải qua đến năm 1954, một lần nữa vua Bảo Đại phải ra sức thuyết phục, nhân danh tinh thần trách nhiệm với Tổ Quốc, để yêu cầu ông Diệm đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng thì ông Diệm mới nhận lời. Điều đó lại càng chứng tỏ Ngô Đình Diệm đâu phải là loại chính khách thèm khát danh lợi, địa vị?
Ngô Đình Diệm từ ngoại quốc về chấp chánh một đất nước tan hoang vì chiến tranh, vì Thực dân Pháp xúi giục Bình Xuyên, Hòa Hảo chống phá, nhưng ông Diệm đã mang lại sự ổn định tình thế. Ông được thế giới trọng vọng, ví như một Thánh Gandhi thứ hai của Á Châu. Khi đi kinh lý Hoa Kỳ, ông Diệm được Tổng thống Eisenhower ra tận phi trường đón tiếp và được đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc hội.
Dẫu không được ông Diệm mời tham gia chính phủ, nhưng nếu là người yêu nước thực sự, biết đặt sự sống còn của Tổ Quốc trên danh giá của mình, Nhất Linh phải lấy tư cách nguyên Bí thư trưởng của Đại Việt Quốc Dân Đảng để xây dựng nền dân chủ còn phôi thai cho Miền Nam bằng hai cách thể hiện:
1/ Dùng sự hiểu biết về tai họa cộng sản để dạy cho trí thức, cho người dân chống lại sự tuyên truyền dối trá của bè lũ cộng sản.
2/ Chỉ thị cho cán bộ của mình truy lùng cán bộ cộng sản nằm vùng và tiêu diệt hạ tầng cơ sở cộng sản.
Là một nhà hoạt động chính trị, hẳn Nhất Linh phải biết “hai cán bộ cộng sản – Lê Đình Thám và Võ Đình Cường đứng ra thành lập các Khuôn hội Phật giáo, các Gia đình Phật tử khắp nơi chỉ với mục đích dùng Phật giáo làm lực lượng đấu tranh lật đổ Chính quyền Quốc gia, khi có cơ hội thuận lợi.”?
Đàng này, ông lại làm một điều hết sức tai hại là tham gia vào cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960 do bọn tay sai Thực dân Pháp (Trần Đình Lan, Vương Văn Đông) chủ xướng. Từng Chống Pháp, sao lại hợp tác với bọn tay sai Thực dân Pháp? Cuộc đảo chánh bất thành, các đàn em của Nhất Linh bị bắt và tố giác chính ông là kẻ chủ mưu. Tại sao Nhất Linh không ra tòa để phủ nhận sự tố giác của đàn em; hoặc nếu có chủ mưu thì tại sao Nhất Linh không dùng pháp đình để dõng dạc lên án chế độ độc tài sẽ làm mất sự ủng hộ của nhân dân Hoa Kỳ? Đấy mới xứng đáng là lãnh tụ chứ!
Tuy nhiên do bởi uy tín quá lớn và cũng bởi được Tổng Thống Ngô Đình Diệm kính nể nên Nhất Linh không bị cầm tù ngày nào. Năm 1963, có lệnh ra tòa, vì sợ phải đối chất với những đàn em, Nhất Linh quyết định hủy mình với bức thư tuyệt mạng sau đây:
“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất vào tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình, cũng như Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, để cảnh cáo những người chà đạp  mọi thứ tự do.”  (Nhất Linh ngày 7/ 7/ 1963)
Em Bông Giấy,
Qua bức thư trên, anh nhận thấy lời Nhất Linh nói không đúng Sự Thật. Chính phủ Ngô Đình Diệm không bắt bớ, đàn áp người ĐỐI LẬP. Bằng cớ là:
– Nhóm đối lập Caravelle gồm các chính khách như Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung, Trần Văn Đỗ, Nguyễn Văn Huyền, Trần Văn Văn… không hề bị bắt.
– Ông Hà Thúc Ký, năm 1955 lập chiến khu Ba Lòng, âm mưu ám sát ông Tổng Thống Diệm nên bị bỏ tù. Nhưng Hà Thúc Ký không hề bị đánh một bạt tai!
 Những người như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lượng, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thành Phương, cùng đám thuộc hạ em út gồm Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Phạm Lợi, Trần Tương… tham gia cuộc đảo chánh mới bị cầm tù mà thôi.
Ngoài ra, Hòa thượng Thích Quảng Đức chưa chắc đã tự thiêu, mà do sự dàn cảnh của tên cộng sản nằm vùng Trí Quang đạo diễn. Là nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm cộng sản, tại sao Nhất Linh dễ tin vào cái chết của HT Quảng Đức là tự thiêu?
Gần đây, anh có viết thư hỏi Trần Quang Thuận, người lái xe đưa Hòa thượng Quảng Đức ra góc đường Lê Văn Duyệt & Phan Đình Phùng rằng: “Có phải Ngài Quảng Đức tự thiêu, hay do đám sư tranh đấu mang đi đốt Ngài?” Trần Quang Thuận im thin thít. Điều đó đủ cho biết sự thật là thế nào rồi.
Theo như sách viết của ông Lê Nguyên Phu, người thụ lý vụ xử Nhất Linh, thì “Nhất Linh tự tử vì sợ đối chất với đàn em tố giác mình chủ mưu gây cuộc binh biến năm 1960; chứ không phải dùng cái chết để cảnh báo nhà cầm quyền làm mất nước.”
Người con út – Nguyễn Tường Thiết  trong hồi ký Nhất Linh Cha Tôi do Văn Mới xuất bản năm 2006 (trang 29-30) đã xác nhận:
“Thế rồi ông quyết định giã từ tất cả. Đà Lạt, Fim Nôm, dòng Đa Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đã chăm sóc từ hai năm qua, để về luôn Sài Gòn, chấm dứt cái thời kỳ mà ông Lê Hữu Mục đã viết trong đoạn kết cuốn sách của ông là “một Nhất Linh nằm trùm chăn ở trên Đà Lạt”. Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn lâu hơn vì đây chính là thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông mà tôi được biết. Nhất Linh ‘xuống núi’ lăn vào cuộc đời làm báo, tham gia đảo chính, thất bại, đi trốn, bị đưa ra tòa, đưa đến cái tự vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một thời kỳ cuối cùng của đời ông với nhiều não nề, nhiều chán chường hơn”.
Nếu Nhất Linh là người vô danh tiểu tốt mà tự vẫn, ngay cả vì lý do chống chính quyền, thì chẳng có gì tác hại ai ngoài gia đình thân thuộc; đằng này, ông lưu lại bức thư tuyệt mệnh tự hủy mình vì lý do chống độc tài và kéo thêm sự tự thiêu của một Hòa Thượng Quảng Đức để chống đàn áp tôn giáo, thì chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa chống Cộng sản và xây dựng Dân chủ sẽ không còn nữa trước dư luận thế giới.
Chính bức thư tuyệt mệnh của Nhất Linh là cái mồi lửa đốt cháy VNCH và làm cho cuộc xâm lăng của Việt Cộng đạt thắng lợi qua chiêu bài Giải Phóng Dân Tộc.
Em Trần Thị Bông Giấy thân mến,
Vì phải chứng minh cho cô giáo Trần Thị Lam và giới trẻ trong nước cũng như hải ngoại hiểu tại sao dân Việt Nam bốn ngàn tuổi mà không chịu lớn, bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm, anh mới phải đề cập đến Nhất Linh, thần tượng của nhiều người –trong đó có anh  một thời cắp sách đến trường. Anh không có mục đích khơi lại đống tro tàn dĩ vãng. Anh cũng không “vạch áo cho người xem lưng”, bởi vì kẻ thù nhìn thấy lưng (nhược điểm) của ta còn hơn ta thấyAnh chỉ muốn nhắn gửi với các bạn trẻ nếu muốn cứu nước thì hãy nhớ đặt quyền lợi của Tổ Quốc, của Đồng Bào trên hết.
Bức thư tuyệt mệnh của nhà cách mạng Nhất Linh đã giết chết tên tuổi của ông trong lịch sử. Và nó cũng giết chết nước Việt Nam Cộng Hòa đang vừa chiến đấu tự vệ vừa xây dựng nền Dân Chủ. Do bởi cuộc đấu tranh bảo vệ CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA của VIỆT NAM CỘNG HÒA trở thành PHI NGHĨA!
Thư tới, anh sẽ chứng minh cho giới trẻ thấy tại sao Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa; chứ không phải “Đồng Minh Tháo Chạy” như luận điệu của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng.
Thân ái chúc em dồi dào sức khỏe.
Bằng Phong Đặng văn Âu,
Địa chỉ email: bangphongdva033@gmail.com

Telephone: 1 – 714 – 276 – 5600

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét