Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 26 tháng 7, 2017

Tại sao nợ công của Việt Nam quá ‘xấu’ và ‘nguy hiểm’?

no cong cua viet nam xau va nguy hiem 3

Nợ công đã và đang là thách thức lớn nhất của nền kinh tế bởi nó xói mòn nỗ lực tăng trưởng trong dài hạn. Vậy tại sao nợ công của Việt Nam lại “xấu” và “nguy hiểm” đến vậy với nền kinh tế trong khi nhiều quốc gia lớn khác vẫn được xem là “ổn định” và “bền vững” dù tỷ lệ nợ công/GDP của các quốc gia này cao hơn nhiều lần so với Việt Nam? Bội chi ngân sách kéo dài nhiều năm khiến tốc độ tăng nợ công gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP…
<!>
Chính phủ của một quốc gia nếu luôn chi tiêu nhiều hơn so với nguồn thu từ thuế, tức là để tình trạng thâm hụt hay bội chi ngân sách kéo dài, thì nợ công sẽ tăng nhanh. Để bù đắp vào thâm hụt hay bội chi ngân sách, Chính phủ có hai lựa chọn, hoặc là in thêm tiền để bù vào, hoặc là đi vay thêm tiền, chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu chính phủ (trái phiếu trong nước và quốc tế), hoặc vay vốn ODA. Và cũng bởi vậy, biến động lãi suất trái phiếu chính phủ, hoặc biến động đánh giá xếp hạng trái phiếu chính phủ của các tổ chức xếp hạng uy tín là thước đo hết sức tiêu biểu đánh giá tín nhiệm đối với Chính phủ đó và sức khỏe của nền kinh tế đó. 


Với tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài nhiều năm, đương nhiên nợ công trở thành vấn đề bức bách nhất của Chính phủ và nền kinh tế Việt Nam; giai đoạn 2006 -2016, tỷ lệ thâm hụt ngân sách/GDP tăng từ mức 0,99% lên đến 8,24%. 
Theo số liệu được công bố chính thức của Chính phủ, trong giai đoạn 2011-2015, nợ công tăng bình quân 18,5%/năm, gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP. Năm 2015, nợ công tăng gấp 2,3 lần năm 2010; gấp 7,6 lần năm 2005 và 14,8 lần năm 2001. Cách đây 15 năm, nợ công chỉ chiếm 36,5% GDP và hiện đã chiếm gần 65% GDP. Chính phủ đã phải áp dụng phương pháp vay đảo nợ để có nguồn tiền trả nợ công: năm 2013 phải đảo nợ 47.000 tỷ đồng, chỉ một năm sau đó con số đảo nợ đã tăng lên mức 106.000 tỷ đồng, con số này năm 2015 đã là 125.000 tỷ đồng, và năm 2016 tiếp tục phải đảo nợ 95.000 tỷ đồng (!)
Tuy nhiên, những gì Bộ Trưởng Bộ Tài chính đưa ra mới chỉ so sánh với chính Việt Nam trong 5 năm qua. Để có đánh giá đúng và đủ về rủi ro và hệ lụy thực sự của nợ công Việt Nam, chúng ta cần xem lại chuẩn mực nợ công của thế giới, nợ công “tốt” và nợ công “xấu”, các hệ lụy của nợ công “xấu” tới một quốc gia đang phát triển và nghèo như Việt Nam; nhìn sang các nước trên thế giới và khu vực để có tham chiếu và nhận định chính xác hơn cho vấn đề nợ công của Việt Nam. 


Dù vậy, nợ công vẫn chưa được tính đúng và tính đủ theo thông lệ quốc tế

Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm: (1) Nợ của Chính phủ Trung ương và các Bộ, ban, ngành Trung ương; (2) Nợ của các cấp chính quyền địa phương; (3) Nợ của Ngân hàng Trung ương; và (4) Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ. Trong trường hợp của Việt Nam, đây chính là nhóm các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, gọi tắt là doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Còn ở Việt Nam, Bộ Tài chính lại không đưa nợ DNNN vào nợ công, chỉ tính đến nợ của chính phủ và bộ máy công quyền. Theo đó, với cách tính này, nợ công của Việt Nam chưa bao gồm nợ của các DNNN. Tuy nhiên, khối DNNN – vốn là khối chiếm giữ khối tài sản quốc gia lớn, cát cứ các lĩnh vực kinh doanh quan trọng (điện, dầu khí, khoáng sản, tài chính, viễn thông…) nên nợ của nhóm này cũng rất lớn. Ví dụ như trường hợp của Vinashin, dù nợ của Vinashin không được tính vào nợ công, nhưng khi Tập đoàn này mất khả năng thanh toán trên thị trường quốc tế, Chính phủ đã không thể lờ đi trách nhiệm trả nợ của mình, bởi nếu không gánh trách nhiệm đó thì mức tín nhiệm của TPCP sẽ bị hạ xuống thấp, lãi suất TPCP buộc phải tăng lên mà vẫn không thể phát hành đủ để bù vào bội chi ngân sách hàng năm.


Quy mô và tốc độ tăng của nợ công Việt Nam gây rủi ro cho tăng trưởng kinh tế

Để đo mức nợ công hay kiểm soát nợ công ở ngưỡng an toàn, các quốc gia cần phải xác định được các tỷ lệ nợ công/GDP. 
Nhìn chung, các tổ chức tài chính quốc tế và chuyên gia kinh tế khuyến nghị rằng, nếu nợ công/GDP quá lớn, 65%-80% GDP, thì dù vay bằng hình thức nào, GDP sẽ bị ảnh hưởng xấu, thậm chí có thể dẫn đến tăng trưởng âm, vì hầu hết tiền đều phải dùng để trả nợ chứ không còn đủ để đầu tư cho kinh tế. Còn phải đánh giá thực trạng nợ, tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, tiền tệ, nhu cầu về vốn đầu tư phát triển, hệ số tín nhiệm của quốc gia… Theo các chuyên gia kinh tế, đối với các quốc gia mới nổi hay đang phát triển, nợ công/GDP ở mức 40% là tỷ lệ được đề xuất và tỷ lệ này không nên bị phá vỡ trong dài hạn. 


Ngay cả khi chưa tính đúng và đủ nợ công, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã xấp xỉ 65%, cao thứ hai ASEAN, chỉ sau Singapore có tỷ lệ nợ công lên đến 104,7% GDP. Tuy nhiên, phần lớn nợ công của Singapore là vay từ dân cư của quốc đảo này bằng chính đồng nội tệ với mức lãi suất rất thấp nên nợ công không chịu tác động rủi ro tỷ giá hay mất khả năng chi trả. Singapore cũng là quốc gia hiếm hoi của Châu Á được đánh giá tín nhiệm ở mức cao nhất AAA (cùng với nền kinh tế Hồng Kông). 


So sánh với các quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, nợ công/GDP của họ hầu hết thấp hơn mức 40%, các quốc gia này hầu hết có mức đánh giá tín nhiệm dao động từ A- đến AA+, trong khi mức tín nhiệm của Chính phủ Việt Nam hiện ở mức BB-. 
Điều này có nghĩa Việt Nam phải chi trả lãi cao hơn so với các quốc gia phát triển tương đương khi đi vay nợ và nợ phải trả hàng năm lớn hơn nhiều so với các quốc gia khác (vì quy mô nợ lớn hơn, mức lãi suất TPCP cao hơn). Kết quả là, nguồn thu từ thuế sẽ phải dành nhiều hơn cho trả nợ, giảm tỷ lệ tiền dành cho đầu tư phát triển. Đây chính là nguyên nhân khiến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khó bền vững, chưa tính đến hiệu quả đầu tư và các vấn đề về tham nhũng, thể chế yếu kém.


Nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong nợ công, điều này khiến nền kinh tế sẽ khó giữ ổn định trước các biến động của thế giới và khu vực

Quốc gia là chủ nợ ODA lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản. Mặc dù Việt Nam được vay vốn ODA từ Nhật Bản với mức lãi suất cực thấp nhưng lại phải vay bằng đồng Yên (JPY). Đồng JPY liên tục tăng giá trong khi đồng VND mất giá, điều này khiến gánh nặng trả nợ ODA cho Nhật Bản là lớn, chi phí vay vốn ODA thực tế rất cao. 
Ngoài ra, tỷ trọng nợ công bằng đồng USD của Việt Nam lên tới 44%. Như vậy, các biến động kinh tế Mỹ, các nền kinh tế lớn, động thái lãi suất của FED hoặc đồng USD tăng giá sẽ tác động mạnh lên áp lực trả nợ công hàng năm của Việt Nam. Nền kinh tế khó giữ ổn định trước các biến động kinh tế khu vực và thế giới.
no cong cua viet nam xau va nguy hiem
Nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong nợ công của Việt Nam. (Ảnh: qua kinhtedothi.vn)

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ khó tiếp cận hơn với ODA, Việt Nam chỉ có thể phát hành TPCP với mức lãi suất cao để có tiền đảo nợ và bù đắp bội chi

Việt Nam hiện đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nguồn vốn vay ưu đãi viện trợ phát triển ODA đang giảm dần. 
Theo kế hoạch, tháng 7/2017, World Bank sẽ chấm dứt cho Việt Nam vay ODA. Đến 2019, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), các nhà tài trợ song phương cũng không còn dành ưu đãi ODA cho Việt Nam. 
Điều này có nghĩa, để có tiền đảo nợ và bù đắp bội chi, Việt Nam buộc phải phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế với mức lãi suất cao do tín nhiệm Chính phủ ở mức quá thấp (BB-). Không chỉ rủi ro nợ công tăng mà tăng trưởng sẽ tiếp tục chịu tác động tiêu cực hơn. 
Một số nền kinh tế quy mô nợ công lớn nhưng rủi ro thấp do tín nhiệm Chính phủ cao, lãi suất thấp, vay bằng đồng nội tệ và chủ yếu là vay nợ từ người dân trong nước. Bản thân các quốc gia này cũng là chủ nợ lớn của thế giới
Nhật Bản: Nhật Bản đứng đầu danh sách các nước có quy mô nợ công lớn nhất thế giới, tỷ lệ nợ công/GDP lên đến 243% năm 2015. Tuy nhiên, phần lớn nợ công của Nhật là vay từ người dân trong nước (giống với trường hợp của Singapore), và vay bằng đồng nội tệ JPY. Do đó, sự tăng giảm đồng USD hay tăng lãi suất tiền vay nợ của FED cũng không có tác động gì đến khoản tiền lãi vay mà Nhật Bản chi trả. Nhật Bản cũng là chủ nợ lớn thứ hai của thế giới, tổng số tiền Nhật Bản cho thế giới vay lớn gấp 4 lần tổng sản lượng GDP của quốc gia này năm 2015 là 4.123,26 tỷ USD. 
Mỹ: Tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ là 104%. Tổng số tiền nợ của Mỹ là 19,94 ngàn tỷ USD, trong đó nợ nước ngoài chỉ khoảng 7.790 tỷ USD. Mỹ chỉ nợ bằng đồng USD nên không chịu rủi ro khi các đồng tiền mạnh khác tăng giá hoặc mất giá. Mặt khác, Mỹ chính là chủ nợ của hàng loạt quốc gia bởi Mỹ và ngân hàng Mỹ nắm giữ khoản nợ gồm có tới một nửa tổng sản lượng GDP của các nền kinh tế thế giới cộng lại.
Tâm Như – Minh Ngọc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét