Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 1 tháng 6, 2017

Lá số tử vi - Phạm Thành Châu

Image result for hình một lá số tử vi
Bạn tin có số mạng không ?  Người không tin, quạt lại “Mấy thầy tướng
số có biết được tương lai bản thân mấy thầy không? Hay chỉ nói phét
kiếm tiền?” Người tin với người không tin, cãi nhau, có bao giờ ai
chịu thua ai!
<!>
Nay tôi xin kể, một chuyện về chính bản thân tôi, để nhờ bạn phán xét,
rằng con người có số phận hay không?

Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một tủ. Ông là
người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu,
ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố  vấn cho bà con chòm xóm
trong các vụ quan hôn tang tế. Ai bịnh hoạn đến mời ông tôi bắt mạch,
hốt thuốc, người nào có ý xây dựng gia đình cho con cháu cũng đến nhờ
ông tôi xem tuổi có hạp không, hậu vận có khá không? Hoặc có người
thân vừa qua đời cũng đến thỉnh ý về ngày giờ động quan, xem hướng mồ
mả. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến nhờ ông tôi một lá số để biết
tương lai đứa bé ra sao?

Dĩ nhiên con cháu trong nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số,
hễ người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số
đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích, ông tôi cũng đã phân
tích sẵn trong lá số của bố tôi nhưng không nói ra trước mà thôi.
Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa
cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông
hoàng con, muốn gì được nấy.

Thời Pháp thuộc, bố tôi làm “Jeunesse,” là làm việc làng nhàng gì đó ở
ty thanh niên, thể thao của  thị xã. Ðến thời kháng chiến chống Pháp,
bố tôi theo kháng chiến và mất tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi
người phải tiêu thổ và tản cư về vùng nông thôn, ít lâu sau hồi cư về
lại thành phố.

Ðó là một thị trấn miền biển, cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên
trung học, tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì
thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp.

Trở lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều
gì khác lạ nên thỉnh thoảng  ông lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách
ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài
chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm,
rồi hai người lại bàn  cãi, lý luận rất sôi nổi nhưng rốt cuộc cũng
chịu thua, không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không ra?! Sở dĩ
tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện sách
vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về
sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi  vốn không tin ở số
mạng nên chẳng bận tâm.

Ðến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người
tri thiên mệnh, nhưng ông tôi  vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út,
nên một hôm, ông gọi riêng tôi và bảo “Ông đã chấm cho con một lá số,
theo như lá số, sau nầy, con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa
gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính
phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số?!”
Tôi đáp cho vui lòng ông tôi “Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được,
ông đừng lo cho con.” Ông tôi cười “Người ta nói, số phận an bài, đâu
có kèo nài, thêm bớt được.” Tôi hỏi “Như vậy tương lai của con ra
sao?” Ông tôi trầm ngâm “Cái số của con thì luôn  luôn được may mắn,
đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn ngay, không phải leo lên từng
cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ, từ
cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy.Nhưng lá số của con có điểm mờ ảo
nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy “Ðức năng
thắng số” sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho vững cái đạo của
người quântử...” Tôi tò mò “Con thấy, chỉ cần học giỏi là làm lớn.
Phải không ông?” Ông tôi lại cười “Người xưa nói rằng ‘Nhất mệnh, nhì
vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư’... Ý là số phận con người
còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại,
chứ còn chuyện học hành, cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ
là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa nay có biết bao người dốt mà
làm nên sự nghiệp.”

Chuyện dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy, nhưng lúc đó tôi không
tin, nhưng tôi vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo “Vậy nhà
mình có âm công phong thổ gì không ông?” Ông tôi có vẻ hào hứng lắm
“Về mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được
một cuộc đất rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông
nhắm mắt thì đem quan tài đến đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ
thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết phát...
” Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc
ngàn thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển.
Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông
nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặc biệt, huyệt mộ nằm ngay hàm
của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ sụp
lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó,
con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và
thích thú lắm để ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu.

Từ nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều
do ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán, làm ăn, không có thì giờ, vả lại
bà rất thương yêu, chìu chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên
khi ông tôi mất thì tôi như ngựa không cương, mặc sức lêu lổng, chẳng
ai quản lý được cả. Ði học về là vất sách vở, nhào ra sân đá banh, đá
banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối, ăn xong là xách cây đàn guita đến
nhà mấy đứa bạn hát hò, rên rỉ, nỉ non mấy bài hát mà Duy Khánh, Chế
Linh thường hát.

Ðến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm
“hành trang ứng thí.” Sách vở, từ đầu niên học cho đến cuối năm, bài
nào tôi cũng thấy mới tinh! Con người khi gặpkhó khăn, không biết giải
quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị
đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng sẵn có lá số
tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông tôi
đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa.

Tôi vẫn tiếp tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con
“Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè...” trong thơ ngụ ngôn của ông La
Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi và cha mẹ
chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất
thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ... Thực tâm, tôi
cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể? Thế là
tôi đem tất cả sách vở, tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp
nhang rồi quì xuống, long trọng khấn vái “Ông nội chỉ cho con bài nào
sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết.” Khi ngẩng lên, nhìn
ảnh ông tôi, quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi
yên tâm.

Mỗi môn học, tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và
giở ra, độ năm bài, theo kiểu tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó
thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi, tôi trúng tủ,
đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười, mà đậu
bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày, học
đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt!? Chúng thắc mắc, tôi phét
lác “Sang năm, tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.” Năm
sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mững đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của
ông tôi đã chấm cho tôi - thi đâu đậu đó - và tin nhất là ông tôi vẫn
ở bên tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông. Thi tú tài hai gồm
hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng
tủ, nhưng thi vấn đáp, môn vạn vật, tôi bị kẹt.

Số là, khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong
hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn
vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm.  Lạng quạng là ông ta đuổi ra và
nói “Anh về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm.” Buổi
sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào thi trước. Ðứa nào thi xong, bước ra,
mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần, bụng đánh lô tô, miệng cứ
lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi
lại, kiểu nhứt chín nhì bù. Ðến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón
rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám.
Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình
thẻ học sinh, ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu
hỏi. Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy “Tại sao ban đêm, không nên
ngủ dưới tàng cây?” Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo “Nói đi!”

Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có trong sách vạn vật chứ
đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn toàn không có
một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết
rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông
tôi cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông
giám khảo lại nhắc “Nói đi!” Tôi khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì
đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có
sẵn rồi.

Bỗng nhiên tôi liên hệ bản thân và nói “Thưa thầy, ban đêm không nên
ngủ dưới tang cây, vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu!” Ông ta
ngẩng lên nhìn tôi “Sao anh biết?” Tôi phấn khởi “Thưa thầy, buổi tối,
em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng dậy, thấy
hơi mệt mõi trong người.”

Ông ta lại nhìn tôi, mặt lạnh tanh “Ðây là khoa học thực nghiệm chứ
không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng công thức đàng
hoàng. Anh biết khí ốc xi  không? Anh biết cạt bô níc là gì không?
Viết công thức ra xem?” Tôi gãi đầu, ốc xi thì tôi viết được, cả đến
khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa, nhưng công thức viết thế nào?
Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông
giám khảo mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp phải
người ngoài hành tinh, gì cũng không biết!

Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên, đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên
ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi “Anh học vạn vật với thầy nào?” “Thưa
thầy, em học với thầy Ðồng Ðen.”

Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn
học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây
lại đem ra nói với ông giám khảo của mình, đúng là tội phạm húy! Ông
giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo “Gặp thầy Ðồng thì thưa với
thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào
ngoài kia thì bảo họ vào ngay.Gần hết giờ rồi!” Tôi thưa “Thưa thầy,
em là người chót.” Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi
cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng.

Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục,
đời đời bị lửa đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có
ông Phật, ông Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên
đường ở nữa. Trước đó, chỉ năm phút thôi, tôi thấy ông giám khảo sao
ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ như ông Phật!

Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng, tưởng
như mình nằm mơ.

Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Ðúng như ông tôi nói
“Thi đâu đậu đó!”

Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi
vào Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành
Chánh tuyển sinh viên ban Ðốc Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy
mình làm lớn (?!), phải thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn
thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến Pháp.
Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi
khác. Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến
chuyện bài vở.

Một buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về
nằm đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài luật Hiến Pháp
của giáo sư Nguyễn Văn Bông.

Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn
bài đến từng chữ một. Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ,
tuy đề thi có hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Ðốc Sự, Học Viện Quốc
Gia Hành Chánh ắt còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường
Hành Chánh khó cỡ nào không?

Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi,
trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười
sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó
hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng
vào lá số tử vi của mình được?

Sau bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ
(đứng chót). Khi chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại
mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy
thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi.

Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi
trong quận đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là
núi cao rừng rậm, thỉnh thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom
đạn... Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi không bao giờ buồn
chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như trong công vụ. Tôi
đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp đỡ đồng
bào trong quận. Nói “ông quan thanh liêm” cho oai chứ chức phó quận
đâu có quyền hành gì, hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều có lý tưởng, chỉ
nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi.

Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con
gái dù các cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ
đi trước mặt. Tôi cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi
thánh thiện gì, nhưng nghĩ đến tương lai sáng lạn (!?) tôi chả dại mà
để cho bọn đối lập sau nầy mang đời tư của tôi ra mà bêu riếu.

Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa
tôi mới ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi
hẻo lánh nầy mãi, thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?!
Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp sĩ quan Thủ Ðức.
Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi
là người “văn võ toàn tài,” sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ
huy mấy ông tướng lãnh.

Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm
trưởng ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ
sơ, điều động cán bộ, nhân viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí
của định mệnh bắt đầu chuyển động và con đường công danh, sự nghiệp
của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi. Không ngờ ngồi chưa
nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi
chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của
việt cộng.

Khi có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là
đem một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng
hái xin đi học tập, chen nhau vô cổng (tù) đến độ bộ đội phải bắn súng
để giữ trật tự. Ðến chiều hết giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào
kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình
diện học tập, cải tạo là các trường học Gia Long, Trưng Vương, Don
Bosco (?)...

Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya, bộ
đội dựng đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội, sát
khí đằng đằng, súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới
với. Xe tụi tôi được đưa lên làng cô nhi Long Thành, có tên mới là
trại cải tạo 15 NV.

Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì
bọn trẻ biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà
dài, mỗi dãy có sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được
nhốt mỗi dãy khoảng trên ba trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên
bốn nghìn tù.

Giai đoạn đầu, tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa
là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội
ác gì với cách mạng và nhân dân... Khai xong nộp cho đội trưởng, đội
trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp
cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường
nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo
cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát,
những bài hát cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy...

Mấy cậu ngụy ngồi hát say sưa, tưởng như bọn Mỹ, Ngụy nào đâu chứ
không phải mình! Hát bài “Chiếc Gậy Trường Sơn,” bài “Bác đang cùng
chúng cháu hành quân” cũng hả họng hát một cách vô tư, cũng căm thù,
cũng tình cảm lai láng như mình là bộ đội, cán bộ việt cộng vừa chiếm
được miền Nam và đang làm thịt quân dân cán chính miền Nam để trả
thù... Mấy tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để
đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ
rình.

Ðúng y bon, một lần bọn tù chúng tôi hát bài “Giải phóng miền Nam,”
đến câu “Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng...” thì cán bộ Hai Sự,
phụ trách dãy A, thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào “Dẹp, không
được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài
ấy, tôi cùm đầu!”

Vào nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm
thằng tù khôngbiết ngày nào ra? Khổ nỗi, cán bộ cộng sản lại bảo “Ty
Công Vụ” là công an, mật vụ, kết tội nặng, đày ra Bắc cho chóng chết.

Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất
trong đời thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo, vì đã
đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn
tin, cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê, kẹo bánh...
Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét,
tự coi như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều cậu còn bàn chuyện sau một
tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất
nghiệp!? Ngây thơ đến thế là cùng! Riêng tôi thì hoàn toàn thất vọng.
Cái lá số mà ông tôi đã chấm cho tôi, trước giờ rất đúng, nay bỗng
nhiên lại xảy ra chuyện kỳ cục nầy?

Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những
người có học mà nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rãi, sâu sắc
lắm. Thế nên, nhân một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói
chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng
hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng đẻ, có đúng giờ chào đời của
tôi không? Sau khi xác nhận là đúng y trăm phần trăm, họ bấm tay như
mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẽ ngang, vẽ dọc...

Rồi ai cũng ngớ ra, lá số tôi quả có chuyện lạ! Họ lại xúm nhau bàn
tới bàn lui, cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước
đến giờ có đóng kịch, hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai
thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa.
Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì
xuất sắc lắm. Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một cách nghiêm trang
“Cậu biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy?” Tôi bảo “Tôi
làm đội trưởng.” “Cậu có biết, dưới tay cậu có những ai không?” Tôi kể
tên mấy ông trại viên trong đội tôi... Ông A, ông B, ông C... Ông ta
lại hỏi “Mấy ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không?” “Thì ông A làm
thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha...”

Ông bạn tù giải thích “Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Ðây
cậu quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ
tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu
rồi, còn phàn nàn gì nữa!?” Tôi nổi xùng “Các ông đó đâu còn làm quan
chức gì?” “Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng
thống. Họ nhốt chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu
làm đội trưởng, là làm xếp mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng
quốc thì làm gì?” Cả bọn cười vang, nhưng tôi không cười.
Cái thằng cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày xưa, đã chơi cho tôi một
cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng
cho con cháu phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế, cho đến
khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết
tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn “cơm” tù để hiểu thế nào là
thằng tù cải tạo cộng sản.

Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái
bao bố, nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có mấy đứa lại
bảo để có sẵn mà cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm
được nhanh gọn, hoặc khi đày lên núi rừng, nếu có biến động, cứ bắt tù
ngồi vào bao bố và bắn chết và khiêng bỏ xuống hố, tiện việc nhà nước,
vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu mà phải dùng bao bố?

Chúng tôi xuống tàu thủy, ra miền Bắc. Lúc lên bờ, bị đồng bào đứng
chờ sẵn mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi
lao động, gặp đồng bào họ lại bảo “Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra
giải phóng, không ngờ các ông ra làm thằng tù!” Tôi chẳng bao giờ để ý
đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng cho tương lai bản
thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ
định làm đội trưởng, từ chối có thể bị gán cho tội ngoan cố và bị cùm
cũng nên, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là
quan lớn trong các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp... đủ cả.

Gần mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé
số, sửa xe đạp... sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình,
tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không
trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một mình, và cũng nghĩ rằng
cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu
đặt ra mục đích lừa phỉnh, dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết
để kiếm tiền mà thôi.

Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu
ly. Tiếng tây, tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai,
nên tôi yên trí. Thị trấn tôi ở, thuộc vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ, tuy không
đông lắm nhưng rất xô bồ. Ðủ thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á
Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo.

Tôi ở trong một chúng cư đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã
hội. Trộm cắp, hút xách, đánh lộn... ngày nào cũng xảy ra. Ðậu xe,
khóa cẩn thận, nhưng chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe,
lấy đi. Ðôi khi chúng ăn cắp xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke,
súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt cóc... Nhà có con gái, khuya chúng
đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên, cha mẹ chạy ra, mở
đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám làm gì vì sợ
chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì
người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt.

Thấy thế tôi nổi xùng, vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một
cộng đồng nhỏ, có gì binh vực, giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến
người Việt là tất cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận
mặt. Kết quả là từ đó, chúng chừa người Việt, không quấy phá nữa. Các
chúng cư quanh đấy, người Việt cũng theo gương mà đoàn kết lại.

Rồi nhân những dịp lễ Tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ
Tết, tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống... Sau cùng thành lập một
cộng đồng lớn, bầu cử Hội Ðồng Quản Trị rồi bầu Ban Chấp Hành, xin
giấy phép lập hội để đủ tư cách liên lạc với chính quyền địa phương.

Ðến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy
ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi, thứ chức tước “ảo” như đội trưởng,
tổ trưởng trong tù. Nhưng nhiều người lại tín nhiệm tôi, họ năn nỉ tôi
tham gia Hội Ðồng Quản Trị vì biết tôi rất nhiệt tâm với đồng bào. Tôi
cự nự như muốn gây lộn, họ vẫn cứ năn nỉ, tôi đành chấp nhận, cứ nghĩ
mình sẽ không đến họp, không làm gì cả tất họ sẽ chán, thế nên, khi họ
bầu tôi vào Ban Chấp Hành, tôi cũng không phản đối. Nhưng rồi vì một
nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch Ban Chấp
Hành. Số là trong Ban Chấp Hành có một người đẹp. Với người khác, có
lẽ cô không đẹp lắm nhưng với tôi, chỉ mới thấy là đã ngớ người ra,
hồn vía lơ lửng đâu trên mây xanh! Người đẹp có đôi mắt và chiếc miệng
đúng là “đẹp không thể tả!” Mắt cô một mí, khi cô cười thì như nhắm
lại, nhưng dưới hai làn mi đó là cả “một hồ nước mùa thu” long lanh,
nếu tôi được cô nhìn và cười thì tôi “chết mê chết mệt,” mặt cứ thộn
ra, ai cũng thấy rõ.

Thế là từ “lần đầu gặp gỡ” hình ảnh cô, giọng nói, đôi mắt, nụ cười
của cô cứ hiện ra rõ rệt trong đầu tôi, khiến bụng dạ tôi cứ lộn xộn,
lúc nào cũng náo nức muốn gặp được cô. Nói theo văn chương là tôi yêu
cô, yêu theo kiểu mối tình đầu! Sở dĩ mấy ông bà mời cô ta vào hội vì
cô ta rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt Nam, cô là giáo sư Anh
Văn, hơn nữa cô rất thiện chí. Mấy người đi HO qua đều được cô giúp
đỡ, hướng dẫn đi xin trợ cấp, xin việc...

Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền và
các cộng đồng bạn. Cô còn độc thân, là con gái của một ông trung tá,
gia đình cô có một nhà hàng, rất đông khách. Ban ngày hơi vắng khách
nên cô có thì giờ lo việc cộng đồng.

Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin thằng xếp trong tiệm (tôi làm cu li,
sai gì làm nấy) làm buổi tối để có dịp cùng cô làm chuyện thiên hạ.
Chở người nầy đi khám bịnh, đưa người khác đi xin việc, xin trợ cấp...
Ði đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo, viện lí do là không rành tiếng Mỹ.
Cô thì lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe,
cô lại nghiêm trang, mắt luôn nhìn phía trước, không cười khi tôi pha
trò! Coi bộ cô không có cảm tình với tôi, nhưng khi đã yêu thì kể sá
gì chuyện có được yêu lại hay không! “Ai chiến thắng mà không hề gian
khổ? Nghĩa là cứ nhào đại vô mà tỏ tình, không được thì cũng chả chết
ai.” Nghĩ thế nên tôi tìm dịp cho cô biết tình cảm của tôi đối với cô.

Nhưng phải làm cách nào mà nếu cô có cảm tình với tôi, cô sẽ hiểu
ngay, ngược lại cô sẽ nghĩ rằng chuyện đó không liên can đến cô. Nghĩ
mãi tôi mới sáng tác ra được một chuyện tình để tìm cách kể cho cô
nghe. Thường thì sáng nào tôi cũng đến nhà hàng của gia đình cô để
uống một ly cà phê. Cô mang cà phê ra cho tôi, ngồi đối diện, nói vài
câu xã giao hoặc bàn đến chuyện cộng đồng, độ mươi phút cô mới đứng
lên, vào bên trong lo việc bếp núc.

Một lần tôi đề nghị cô ngồi nán lại để nghe tôi “kể chuyện nầy, hay
lắm!” Cô tươi cười ngồi xuống. Tôi kể vắn tắt “Cô có còn nhớ, tuần
trước tôi và cô ra phi trường đón một gia đình HO, gồm năm người,
trong đó có một cô gái đẹp và có duyên đến độ tôi mới gặp mà đã đem
lòng thương yêu. Cô ta có đôi mắt lá răm, miệng lúm đồng tiền, nói
năng dịu dàng, vui vẻ. Tôi thường gặp cô ta mà không biết làm cách nào
để tỏ tình. Yêu thầm cũng được nhưng rủi cô ấy lấy chồng thì có lẽ tôi
sẽ chán đời hoặc thành người điên mất. Theo ý kiến cô, tôi phải làm gì
cho cô ấy hiểu được tình tôi? Tôi có nên nói ra cho cô ấy biết không?”

Cô lặng yên một lúc rồi nói “Chuyện tình yêu của anh, anh nên hỏi một
người đàn ông khác, bọn phụ nữ chúng tôi làm sao có ý kiến được, hơn
nữa, phải gặp gỡ cô gái đó mới biết được ý nghĩ của cô ta...” Nói xong
cô đứng lên. Tôi không hiểu cô có biết lời tỏ tình gián tiếp đó của
tôi không, nhưng sáng hôm sau, tôi đến nhà hàng của gia đình cô uống
cà phê, cô không ra tiếp. Tôi đoán cô không ưa tôi, không muốn bị tôi
làm phiền.  Tôi buồn chán quá, thấy đời vô vị, và cô ta, trong đầu
tôi, cô vẫn còn đẹp nhưng rất xa lạ, đến độ tôi ngượng, không dám gặp
cô. Công việc đón tiếp, giúp đỡ đồng hương mới đến xứ Mỹ, chúng tôi
cũng đi chung nhưng tôi không cảm thấy hăng hái chút nào, cô ngồi bên
cạnh mà như người chưa gặp lần nào. Nhiều khi tôi đi một mình, không
rủ cô đi theo. Tôi có ý định sang tiểu bang khác.

Cái Ban Chấp Hành Cộng Ðồng, thấy thì đủ các ủy viên, năm bảy người,
nhưng công việc, họ giao hết cho hai đứa tôi rồi lặn đâu mất tiêu.
Trước đây, tôi bon chen cho được cái chức chủ tịch là để được dịp gặp
người đẹp, nay thì tôi đã chán rồi, muốn rút lui. Thế nên nhân dịp
Việt Cộng đưa mấy ca sĩ tân nhạc, cổ nhạc qua Miền Ðông nước Mỹ làm
công tác văn hóa vận, cả Hội Ðồng Quản Trị với Ban Chấp Hành họp lại,
tìm cách tẩy chay. Buổi họp có vẻ sôi nổi lắm. Lên kế hoạch, chương
trình rất kỹ lưỡng, nhưng cuối cùng lại giao cho Ban Chấp Hành làm cả!
Tôi họp mọi người để phân công.

Mấy ông trong ban chấp hành lại giao cả cho hai đứa tôi. Tôi quyết
liệt phản đối thì các vị đó lại cười “Tụi tôi biết anh quá mà! Lúc
trong tù, trực diện với cai tù, anh còn thành công, bây giờ vận động
đồng bào không đến coi hát của văn cộng việt cộng, là chuyện nhỏ...”
Tôi ngạc nhiên “Sao quí vị biết tôi đi tù cải tạo?” Các ông ấy nhao
nhao lên “Anh quên tụi nầy, chỉ biết có người đẹp thôi, chứ tụi nầy
vẫn còn nhớ anh. Ði chung một chuyến bao bố (Tù bị đày ra Bắc, được
phát bao bố), ra ngoài Bắc, đi đâu anh cũng làm đội trưởng tụi nầy.”
Lúc đó nhìn kỹ, tôi mới nhớ, đó là mấy ông bạn tù ngày trước, thời
gian quá lâu, hơn mười năm rồi, các ông ấy qua Mỹ lại thay đổi, nên
không nhận ra, vả lại, có người đẹp bên cạnh thì tôi chẳng nhìn thấy
ai khác nữa!

Lại mấy ngài quan lớn, hành pháp, lập pháp, tư pháp... ngày xưa! Và
tôi vẫn lại làm xếp họ! Tôi đâukhác gì quan tể tướng? Lúc trong tù tôi
không dám từ chức, nhưng ngoài đời, ở xứ Mỹ, tôi chỉ cần nói “bye!”
một tiếng là xong ngay. Trước kia thì cho rằng số mệnh an bài, nay tôi
cãi lại số mệnh để xem cái chức tể tướng có còn theo làm phiền tôi nữa
hay không? Còn mấy vị quan quyền nầy, trước giờ cứ bắt bí tôi, gài tôi
vào với người đẹp để tôi phải làm chủ tịch, thì nay tôi sẽ chơi lại
họ.

Tôi sẽ qua tiểu bang khác, để xem con rắn mất đầu cựa quậy ra sao?
Thế nên tôi vẫn vui vẻ sắp xếp công việc, kêu gọi quí vị ấy tiếp tay,
liên hệ với các hội đoàn bạn cùng phát động chiến dịch thêm rầm rộ,
hiệu quả. Dự định xong vụ nầy tôi sẽ “lặng lẽ ra đi với một quả tim
nặng trĩu buồn phiền!”

Chiều hôm đó, họp xong, tôi xin cô phó chủ tịch, người đẹp của tôi,
nán lại ít phút để bàn công chuyện. Tôi vào đề ngay “Cô thấy nhiệm vụ
của chủ tịch ban chấp hành có khó khăn, vất vả gì không?” Cô nhìn tôi
dò xét “Tôi thấy anh giải quyết chuyện gì cũng ổn thỏa cả, nên nghĩ là
không khó khăn bao nhiêu.” Tôi hỏi “Thế cô có thể thay tôi làm chủ
tịch được không? Tôi thấy cô đã có ít nhiều kinh nghiệm trong nhiệm vụ
nầy.” Cô ngạc nhiên “Anh định làm gì mà trao nhiệm vụ nầy cho tôi?”
Tôi nói “Tôi sắp đi tiểu bang khác.” “Vì sao vậy? Có ai làm phiền anh?
Hay là vì cô gái mà anh đã kể cho tôi nghe?” Tôi làm ra vẻ suy tư
“Ðúng rồi, tôi thất tình cô ta nên muốn đi xa... Tôi hi vọng, cô làm
chủ tịch, sẽ được mọi người giúp đơ...” Cô lắc đầu “Tôi không muốn
chức vụ gì cả. Tôi chỉ muốn giúp đỡ đồng bào trong lúc mới đến xứ Mỹ
xa lạ, để họ ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu mà thôi...” Tôi
đành nói “Thôi được, tôi sẽ tính sau. Dù sao thì tôi cũng nhất quyết
đi khỏi nơi nầy. Ở đây, lúc đầu thì vui nhưng bây giờ tôi chán rồi.
Tôi có người bạn ở tiểu bang khác, hắn đã xin sẵn cho tôi một việc làm
ở đó.”

Lúc đứng lên cô cười hỏi “Sao lối rày anh không đến uống cà phê nữa?
Không có tiền thì tôi cho ghi sổ.” Tôi cũng cười bảo “Khi thất tình
thì đến đâu cũng chẳng thấy vui, uống cà phê cũng hết ngon. Nhưng sáng
mai tôi sẽ đến, thưởng thức cà phê do cô pha lần cuối trước khi lên
đường.” Sáng hôm sau tôi đến nhà hàng của cô. Cô đích thân mang cà phê
ra cho tôi còn ngồi đối diện, cười nói vui vẻ “Tôi mang đến anh một
tin vui đây.” Tôi nghi ngờ “Ðang rầu thúi ruột, vui gì nổi!” “Vui chứ!
Như thế nầy. Tôi có đến nhà cô gái mà anh trồng cây si. Phải đó là cô
Bé Ni không?
Tôi hỏi “Bé có thương chú Vy không?’ Cô bé trả lời “Dạ thương!” Tôi
hỏi “Thương nhiều hay ít?”Cô bé nói “Dạ thương nhiều!” Vậy anh vừa
lòng chưa? Bây giờ hết thất tình rồi phải không?”
Tôi kêu lên “Trời đất! Cái con bé năm tuổi đó thì tôi làm sao thất
tình được!?” Cô nhìn tôi hóm hỉnh “Chính anh nói yêu cô ta. Bị cô ta
từ chối, anh thất tình, đòi đi nơi khác. Nay tôi hỏi lại, cô ta nói
thương anh nhiều thì anh còn đi đâu nữa?” Tôi lắc đầu, vừa chán vừa
ngượng “Ðó là tôi nói ví dụ vậy thôi chứ tôi yêu người khác, nhưng cô
ta không ưa tôi nên tôi...” Cô nhìn tôi đăm đăm như chờ đợi.

Tôi không dám nhìn cô, nhưng biết rằng lúc đó mà tôi không nói thì
không còn dịp nào khác nữa “Bây giờ, tôi sắp đi tiểu bang khác nên tôi
liều mạng. Cô có ghét tôi, khinh tôi, cũng không làm gì được. Hôm
trước tôi nói quanh co như thế, chứ thực ra tôi muốn nói là tôi yêu
cô. Nhưng tôi biết cô không ưa tôi, mà tôi không nói, cứ để trong
bụng, ấm ức, không chịu được. Bây giờ nói xong rồi... Chỉ xin cô đừng
cho ai biết lý do tôi đi tiểu bang khác. Tôi xin lỗi cô nếu tình yêu
của tôi làm cho cô bực mình...”

Cô cúi xuống, chấm ngón tay vào li nước, vẽ linh tinh trên bàn, một
lúc mới nói “Ai cũng lớn cả rồi, đâu còn con nít mà phải nói quanh.
Nếu anh có tỏ tình với em mà em không đáp lại thì có gì xấu hổ cho anh
đâu? Tư cách anh đàng hoàng, lại có lòng vị tha, yêu thương đồng
bào...Ai cũng mến phục anh. Hôm trước, nghe anh nói, lúc đầu em tưởng
anh nói thật, cứ tự hỏi.

Có cô nào mắt lá răm, miệng núm đồng tiền giống mình? Em đi tìm gia
đình HO mới qua, thì chỉ có con bé Ni. Em biết ngay là anh muốn nói về
em. Em cảm động lắm, nhưng ngượng quá, vừa muốn gặp anh vừa sợ anh...”

Bao năm nay, quí ngài “cựu” quan lớn đó vẫn cứ bầu tôi làm chủ tịch,
làm xếp họ. Hễ kiểm phiếu,thấy tôi đắc cử, làm gì họ cũng hô lên “Hoan
hô chủ tịch gia đình trị!” Chỉ vì vợ tôi vẫn lại là cô phó chủ tịch
ngoại vụ năm nào.

Bây giờ thì mời bạn cho biết ý kiến “Con người có số mạng không?”

Phạm Thành Châu

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *

Vợ là địch, bồ bịch là “ta”
Đám cưới đám ma, thì đi với địch
Party, du lịch - thì đi với “ta”
Chiến sự xảy ra, thì về với địch

Ở trong lòng địch, vẫn hướng về "ta"
Hết tiền xa hoa, tìm về với địch
Chờ túi chắc nịch, sẽ lại thăm “ta”
Cuộc sống xa hoa, dại gì cho địch

Những điều tốt đẹp, dành hết cho “ta”
Lời lẽ chua ngoa, dành luôn cho địch
Những câu êm đẹp, để nói cùng “ta”
Lỡ gặp phiền hà: về ngay với địch

Nhớ cười khúc khích, lại mau tìm “ta”
Khi bệnh trầm kha, bên ta là địch.
Qua cơn nguy kịch, quay lại tìm “ta”
Giây phút ‘trăng hoa’, mà ta cho địch

Cảm thấy chán mệt, hơn khi cho “ta”
Thất thế xuống đà, mau về tìm địch
Chờ khi thăng tiến, quay lại tìm “ta”
Khi “ta” bỏ ta, lại về với địch.

Đêm nằm bên địch, mơ tưởng về “ta”
Mở mắt tỉnh ra, cạnh ta là địch
Cuộc đời quá mệt - vì địch, vì “ta”.

Âu yếm mặn mà, ta không cho địch

Khi nào cơ cực, “ta” lại bỏ ta
Lòng thấy xót xa, quay về tìm địch
Nhưng đà không kịp, địch cũng bỏ ta
Giờ ngẫm nghĩ ra, hận “ta”, thương địch

Cuộc đời đã hết, vì địch bỏ ta
Bài học rút ra: Vì “ta” mất địch
Nếu không muốn mệt, đừng nên có “ta”
Đời vẫn thăng hoa, khi ta còn địch.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét