Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2017

Sài Gòn hồi mới vào - Nguyên Vân

Sài Gòn hồi mới vào 1
Những ngày giáp tết giữa thập niên 1950, người dân khu Hòa Hưng bắt gặp những cụ đồ già người bắc vừa di cư vào nam ngồi trên vỉa hè đường Chason (Phạm Hồng Thái) gần chợ Hòa Hưng. Họ bày bán những liễn đối chữ Hán viết sẵn trên giấy điều.<!>
Ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng tại Sài Gòn trước 1975 gồm các nghệ sĩ từ miền Bắc vào như Hòa Bắc, Hoài Trung, Thái Thanh đã chinh phục khán giả miền Nam với các ca khúc bất hủ của các nhạc sĩ tiền chiến và của Phạm Đình Chương, Phạm DuyẢNH: ĐINH TIẾN MẬU
Thấp thoáng trong số liễn đối có những câu chúc phúc bằng chữ Việt viết theo Hán tự. Họ ngồi buồn vì ế khách. Cho đến lúc đó, dân Sài Gòn - Gia Định không còn mấy ai chơi liễn đối như hồi “đàng cựu” (thời Pháp chưa qua), hoặc nếu có thì đã quen vào Chợ Lớn mua liễn viết sẵn. Những ông đồ già ngồi trầm ngâm dưới nắng tháng chạp vàng ươm dễ chịu, nhưng trời đất xung quanh vẫn không phải mùa xuân xứ bắc với mưa xuân phơi phới bay mà họ mới rời xa.
Đó là một hình ảnh trong câu chuyện trên tờ báo xuân xưa tôi còn nhớ. Lớp người miền ngoài, vì hoàn cảnh đã rời quê hương vào sống trên đất Sài Gòn. Vượt qua những dị biệt ban đầu và cả nỗi nhớ quê dậy sóng mỗi đêm, họ thành cư dân miền Nam, cư dân Sài Gòn... Họ cảm nhận cuộc sống trên đất mới, tuy xô bồ nhưng dễ sống, tuy ồn ào nhưng thật lòng, tuy thiếu hoa mỹ nhưng biết thưởng thức những điều đẹp đẽ và còn tạo điều kiện cho nó thăng hoa. Tuy vậy, lòng hoài niệm của họ vẫn đầy ăm ắp, nên mới có những vần thơ nhớ bắc của Lê Minh Ngọc, ông chủ quán bánh mì Hòa Mã ở đường Cao Thắng: “Ngoài ấy trời xuân lạnh/rét căm lòng cỏ hoa/em nhìn mây không cánh/bay về phương trời xa/nghẹn ngào em thầm hỏi/người đi có nhớ nhà...”. Mới có những tản văn tuyệt tác của Vũ Bằng trong Thương nhớ Mười Hai với tháng hai nhớ hoa đào, tháng ba cảm nhận “trời chuyển bất ngờ, đương nắng thành râm, và chỉ trong khoảnh khắc, rét của cuối chạp, đầu xuân đã trở về trên cánh gió, giữa một khoảng trời tháng ba nắng ấm”.
Văn hóa mở cõi của đất miền Nam trù phú đã được tiếp thêm màu cổ điển từ những người con đất tổ ngàn năm, tạo dựng nên chất sinh động, đa dạng, thể hiện rõ nhất ở Sài Gòn, thành phố của hội tụ nhân tài tứ xứ.
Sài Gòn hồi mới vào 2
Họa sĩ Tú Duyên, người con của làng cổ Bát Tràng, Bắc Ninh, từng theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Từ năm 1939, gia đình ông chuyển vào Sài Gòn sinh sống và đóng góp sắc màu Bắc bộ qua các họa phẩm, trong đó có nghệ thuật sáng tác riêng gắn với tranh dân gian là “thủ ấn họa”ẢNH: TƯ LIỆU
“Chín giờ mới ra phố”
Tuy nhiên, thuở ban đầu luôn là khó khăn. Giống như tâm tình của những cụ già xứ bắc viết liễn ngày giáp tết ở lề đường sát chợ Hòa Hưng. Có nhiều khác biệt, và có lúc không chịu nổi.
Người mới vào đã có nhiều điều quá bỡ ngỡ trước vùng đất mới đầy nắng gió này. Họ ngạc nhiên khi thấy thuốc lá không được bóc ra ở phần trên bao thuốc, mà dùng tay khoét một lỗ ở phía gần đáy rồi rút điếu thuốc ra; khi uống cà phê lại đổ ra đĩa rồi húp từng ngụm; tờ bạc 1 đồng xé làm hai để thành 5 cắc cho tiện; nữ sinh kẹp tóc cao đến gáy, mặc quần trắng ống rộng gấp đôi bình thường và đi guốc mộc.
Phóng sự Sài thành xài tiền của Hà Việt Phương báo Đời Mới số 68 ra đời tháng 7 năm 1953, có kể một ông ngoài bắc vừa vào Sài Gòn. Khi biết ông định đi thăm người quen lúc 7 giờ sáng, bà chủ nhà trọ liền can ngăn, bảo lúc đó còn sớm quá, phải “chín giờ trở đi thì những người như ngài mới ra phố”. Bà này từ Huế vô nam đã lâu, nói rằng ai ở ngoài bắc vô cũng dậy sớm, đi chơi sớm và ngủ sớm. Nhưng người trong này thức khuya, đời sống về đêm nhiều hơn. Bà lớn giọng: “Tối, ngài ra các tiệm các chợ mà coi, cứ chật nức người là người, phần lớn là anh chị em lao động, kiếm được đồng nào thì xào ngay đồng nấy. Trong này không biết dành dụm chi cả. Bây giờ mới có người biết vá áo, biết nhặt rau, chứ trước thì dùng cái gì cũng là nguyên chất cả, hơi hỏng là “đổ bỏ” không hề chữa chạy bao giờ... Ban ngày kiếm được bao nhiêu tiền đến tối xài cho kỳ hết, mai sẽ kiếm tiền nữa. Lo chi. Không lụt lội, không mất mùa, không thất nghiệp...”.
Bà chủ còn hướng dẫn ông khách: Phu xích lô ở Sài Gòn, ai hay bận quần “cộc” (quần ngắn) thì người ấy phải là người “ngoài ta” (tức là bắc hay trung vào làm việc). Người trong này hoang phí, cái gì cũng ra tiệm. Ăn bận toàn quần áo vải lụa mỏng tanh. Người lao động trong này tiện là ngồi bệt xuống đất không sợ hư áo quần, rách là quăng đi may cái khác, hoang phí đến cả mồ hôi, vì có sẵn quần áo để thay...
Sài Gòn hồi mới vào 3
Các tờ giới thiệu chương trình của đoàn Kim Chung. Đoàn Kim Chung, một đoàn cải lương của người bắc vào nam năm 1954 và cuối cùng đã có vị trí sáng giá trong làng cải lương miền Nam, thành lập tới sáu đoàn Kim Chung từ 1 đến 6, hòa nhập vào đời sống văn nghệ miền Nam, tranh thủ sự ủng hộ của đồng bào vừa từ miền Bắc vào và “Nam hóa” dàn diễn viên, mời các cây bút viết tuồng người miền Nam tiếp tay trong việc cung cấp tuồng tíchẢNH: SƯU TẦM CỦA LÊ HOAN HƯNG
Người Sài Gòn hào hiệp
Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự Hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.
Nhà văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu. Mới vào, ông bị lên cơn sốt rét vào nằm Bệnh viện Bình Dân. Vợ con ông và chị giúp việc lên xe xích lô máy chạy vòng vòng Sài Gòn - Gia Định tìm kiếm bà con họ hàng. Tìm mãi không ra, thấy trời đã tối, anh xích lô máy bèn đề nghị về tạm nhà anh ở Vườn Lài. Vừa về tới nhà, anh liền bảo vợ: “Má bầy trẻ đâu, tôi đón được một người làng xóm cũ đây!”. Anh là người bắc, lấy vợ nam và đã lanh trí nhận “người làng” để thêm thân tình, mong vợ trọng đãi khách. Chị vợ, người chất phác, lăng xăng đi quét bộ ván cho ba vị khách nằm nghỉ, đi nấu nước châm trà và còn ra tiệm mua thêm 10 đồng thịt quay về đãi cơm khách nữa. Vợ anh xích lô trong lúc ăn cơm không ngần ngại hỏi: “Chẳng hay anh của chị mần nghề gì?”. Chưa hiểu tiếng Sài Gòn nên chị Thượng Sỹ ngồi yên, anh xích lô đáp thay: “Anh ấy làm “nhật chình”!” (nhật trình: cách gọi báo chí cách nay trên dưới nửa thế kỷ ở miền Nam). Chị vợ gật gù: “Ờ, tốt lắm. Có phải như các ông nhà báo ở Sài Gòn thường viết bài bênh vực nhà lá bị đuổi đất không?”. Chị vợ anh xích lô có thiện cảm ngay với vợ người làm báo mới quen. Sáng hôm sau, anh xích lô tiếp tục chở cả nhà đi thăm nhà văn đang nằm bệnh viện. Ông Thượng Sỹ cảm động về câu chuyện này lắm. Vài ngày sau, ông khỏe nên cả nhà tiếp tục nhờ anh xích lô chở đi tìm bà con. Ông gặp một nhà văn quen biết nên tá túc nhờ vài hôm. Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: “Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu”. Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng. Ông bà nói ngay với khách lạ: “Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!”. Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.
Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói lên điều xuất phát từ đáy lòng: “Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”.
Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật này: “Tôi cứ tưởng xảy nhà ra thất nghiệp... nào ngờ tôi lại hai lần “sa” vào hai cành gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt...”. Ắt hẳn trong thâm tâm, ông biết rằng còn do tính hào hiệp của người Sài Gòn, luôn sẵn sàng giúp người gặp khó khăn. Như khi xưa họ hoặc cha ông chân ướt chân ráo đến thành phố này đã được người ở đây giúp đỡ. Điều đó khiến ông nói lên ý nghĩ: “Nếu được tiếp tục nghề cầm bút ở đây, tôi sẽ quyết dùng ngòi bút phục vụ cho đời sống người bình dân lao động”. Đúng như vậy, chỉ một thời gian ngắn sau, ông tiếp tục đi làm tại một tờ báo chứ không đi dạy học như ý định ban đầu.
Nhà văn Tam Lang, tác giả phóng sự nổi tiếng Tôi kéo xe, khi vào miền Nam cũng ấp ủ nhiều mộng ước. Trước khi vào sống hẳn tại Sài Gòn, ông từng vào đây để tĩnh tâm viết hai vở chèo cổ, theo như bài báo trên báo Đời Mới. Viết xong, ông bay ra bắc lập một gánh hát chèo. Theo tác giả Trương Thọ Phú, Tam Lang khi vào nam vẫn muốn làm sống lại chèo cổ ở Sài Gòn. Ông nói: “Chèo cổ là âm thanh thuần túy của đất nước, không như tuồng cổ là điệu hát bắt chước điệu tuồng Tàu, cũng không như tân nhạc bắt chước điệu hát của Tây. Đây là thứ âm thanh đặc biệt Việt Nam...”. Đây là tâm huyết của vua phóng sự đất bắc, mong phục hồi vốn văn hóa dân tộc trên vùng đất mới Sài Gòn. Tuy nhiên, chuyện đó đã không thực hiện được như chúng ta đã thấy. Trước kia, ông cũng không thực hiện được điều đó ở Hà Nội ngàn năm văn vật, lúc đó lại đang mê tân nhạc và... cải lương miền Nam.
Câu chuyện hội nhập vào cuộc sống Sài Gòn là một câu chuyện dài nhiều tập, nhiều chương. Trong đó, có nước mắt và nụ cười, có sự rộng rãi bao dung và cũng có những khắt khe, thiếu thông cảm và hiểu biết trong cư xử. Qua thời gian và yêu cầu của cuộc sống một đô thị lớn, tính bảo thủ bị pha loãng dần, sự chấp nhận lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ và người ta tìm cách dung hòa những dị biệt, hợp lực xây dựng cuộc sống yên ổn và phát triển. Sự dung hòa đó đã tạo nên chất Sài Gòn, cá tính Sài Gòn ngày hôm nay.
Phạm Công Luận
Chuyện ít biết về Sài Gòn xưa
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Hiệp (một Việt kiều Úc) đã cho ra đời bộ sách về Sài Gòn - Chợ Lớn xưa mang nhiều thông tin mới mẻ, thú vị.
Kết hợp nguồn tư liệu từ những người phương Tây từng đến Sài Gòn - Chợ Lớn xưa đăng tải trên báo nước ngoài, những sách vở ghi chép về Sài Gòn từ các thư viện lớn ở Pháp, Singapore, cùng với việc trực tiếp khảo sát những di tích còn lại của Sài Gòn, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Hiệp (một Việt kiều Úc) đã cho ra đời bộ sách về Sài Gòn - Chợ Lớn xưa mang nhiều thông tin mới mẻ, thú vị.
Buổi ra mắt bộ sách của ông Hiệp (gồm Sài Gòn - Chợ Lớn qua những tư liệu quý trước 1945, Sài Gòn - Chợ Lớn ký ức đô thị và con người, Sài Gòn - Chợ Lớn - thể thao và báo chí trước 1945) vào sáng qua (22.7) tại đường sách Nguyễn Văn Bình, TP.HCM đã thu hút đông đảo bạn đọc ở nhiều độ tuổi, lĩnh vực khác nhau. Cuộc giao lưu cùng tác giả Nguyễn Đức Hiệp, TS Nguyễn Thị Hậu (Phó tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử VN), ông Tim Doling (nhà nghiên cứu người Ireland đang sinh sống và làm việc ở TP.HCM) đã diễn ra rất sôi nổi, hào hứng.
Với nhiều nguồn tư liệu được sưu tầm, nghiên cứu ở các thư viện, nhất là thư viện ở nước ngoài (thư viện quốc gia Pháp, Singapore), đặc biệt là nguồn tư liệu cá nhân được tích lũy từ hàng chục năm nay, những “câu chuyện nhỏ” (cụm từ mà ông đã dùng khi nói về bộ sách này, cũng như những ấn phẩm sắp phát hành) về Sài Gòn - Chợ Lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa, đô thị, kiến trúc, báo chí, thể thao, sân khấu... giúp độc giả dễ dàng hình dung một Sài Gòn - Chợ Lớn xưa.
Chuyện ít biết về Sài Gòn xưa 1
Ảnh chụp cuộc sống người Sài Gòn xưa
Tác giả cho biết trong quá trình nghiên cứu - tổng hợp, ông đặc biệt chú trọng đến khai thác những tư liệu mà trước đây ít được chú ý hoặc có đề cập nhưng chưa đầy đủ. Chẳng hạn như chuyện về cộng đồng người Đức ở Sài Gòn - đa số là các doanh nhân chuyên về dịch vụ bảo hiểm, chuyên chở hàng hóa qua tàu biển (nổi tiếng nhất là ông Speidel, chủ của hai nhà máy xay lúa lớn nhất Nam kỳ nằm dọc kênh Tàu Hủ) khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Hay chuyện ít người biết về cuộc sống lưu vong 32 năm ở Sài Gòn cho đến trước khi mất của hoàng tử Miến Điện Myingun sau khi xảy ra chính biến trong triều đình Miến Điện ở Mandaday vào năm 1866. Một trong ba người vợ của ông hoàng này là người Việt, và bà Daw Phyu - con gái ông, người sản xuất dầu cù là Mac - Phsu nổi tiếng, là một thương gia có thế lực ở VN.
Đặc biệt, khi viết về doanh nhân Trương Văn Bền, được xem là “người đầu đàn về kỹ nghệ của VN” vào đầu thế kỷ 20, Nguyễn Đức Hiệp đã may mắn liên lạc được với cháu nội của Trương Văn Bền là anh Phillipe Trương, hiện sống ở Pháp. Do đó, ông có được những trang viết sống động về nhân vật này. Những thông tin ít người biết về Trương Văn Bền còn được tác giả tìm thấy qua các biên bản chính thức của các buổi họp hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương mà Trương Văn Bền là một thành viên. Hoặc khi viết về thể thao, từ tư liệu báo chí ở Thư viện quốc gia Singapore, tác giả đã cung cấp thông tin về chuyến bay hàng không đầu tiên ở Đông Nam Á năm 1910, năm mà phi công người Bỉ Charles Van den Born cất cánh bay trên chiếc Farman IV ở trường đua Sài Gòn.
Bà Huỳnh Thị Xuân Hạnh, Giám đốc NXB Văn hóa - Văn nghệ, đơn vị phát hành sách cho biết: “Với lợi thế về vốn tiếng Pháp và tiếng Anh, Nguyễn Đức Hiệp tiếp cận nhiều nguồn tư liệu phong phú, nên khi nghiên cứu, đối chiếu với tư liệu trong nước, đã đưa ra những thông tin một cách khách quan và đầy đủ. Chẳng hạn những trang viết về vấn đề giao thương của Sài Gòn dưới thời Tổng trấn Lê Văn Duyệt; hay chi tiết rất nhỏ nhưng thú vị trong vấn đề sinh hoạt của người dân: tại sao khi qua phà thì phụ nữ trả tiền còn đàn ông lại không...”. Còn TS Nguyễn Thị Hậu, dưới góc độ người đọc, cho rằng: “Đây là bộ sách lịch sử dễ đọc, hấp dẫn, với nhiều tư liệu chuẩn xác, phong phú về hình ảnh, giọng văn gần gũi, cách viết thu hút khi lồng trong đó còn là tình cảm, cảm xúc của chính tác giả với quê hương mình”.
Tác giả Nguyễn Đức Hiệp
Ảnh: N.V
Tác giả Nguyễn Đức Hiệp (ảnh) sinh năm 1956 tại Sài Gòn, đến năm 1974 sang Úc du học theo Quỹ học bổng Colombo. Ông hiện là chuyên gia khoa học về khí quyển ở Bộ Môi trường và Di sản, tiểu bang New South Wales, Úc. Nhiều năm qua, ông làm việc và cộng tác với các nhà nghiên cứu ở VN trong lĩnh vực môi trường, biến đổi khí hậu và bảo tồn di sản văn hóa. Bên cạnh công việc chuyên môn, ông đã dành trọn tâm huyết để tìm hiểu, nghiên cứu về Sài Gòn, bởi theo ông, “cơn lốc địa ốc hiện đại hóa, phát triển kinh tế, quy hoạch đô thị đã dần làm mất đi một số di sản, ký ức đô thị Sài Gòn”.
Nguyên Vân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét