Cái gì họ khác ta, làm nên sự khác biệt để vượt trội thì đó là cái cần học. Cái đó chính là những vấn đề cơ bản nêu trên, trong sự phù hợp của khung thể chế chính trị nhà nước và thị trường tự do. Ngoài ra, một vấn đề cốt lõi luôn thời sự là họ ít nói mà làm nhiều. Đó cũng là một sự khác biệt lớn hơn ta!
<!>
“Để tìm ra lối thoát cho lúa gạo Việt Nam, mới đây tỉnh Sóc Trăng đã cử đoàn cán bộ sang Campuchia học tập kinh nghiệm. Đi cùng đoàn còn có GS.TS Võ Tòng Xuân, nhà nông học hàng đầu Việt Nam”, theo Đất Việt Online ngày 26/11/2016. Đọc tin này tôi hoan nghênh Sóc Trăng rất tâm huyết, năng nổ “tìm đường cứu gạo” nhưng không khỏi chạnh lòng, nếu không nói là bị “sốc”!
Ta khác xa Campuchia cái gì?
Tôi từng tháp tùng anh em Công ty Bảo vệ Thực vật An Giang nhiều lần sang giúp bạn kỹ thuật trồng lúa mà các Tỉnh trưởng Tà - Keo, Can- Đal (giáp giới An Giang) hồi đó đề nghị. Họ rất thiết tha và trân trọng chúng ta. Họ cũng từng gặp tôi đề nghị giúp họ tiêu thụ lúa gạo mà ta giúp họ trồng đạt năng suất cao trên vùng giáp biên giới với An Giang, nhưng lúc đó khó bán. Và An Giang đã đáp ứng trong khả năng mình có. Nay nghe Việt Nam qua học Campuchia làm lúa, bán gạo..., tôi thật sự ngỡ ngàng!
Tôi về hưu nay đã hơn 10 năm. Hoàn cảnh anh em ở Sóc Trăng và cả anh Võ Tòng Xuân bây giờ có lẽ cũng khác xa thời trước đây nên mới có chuyện như vừa mới xảy ra. Bây giờ ta khác xa Campuchia cái gì? Cái đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trả lời sẽ đúng hơn. Nhưng theo hiểu biết cũ và những gì cập nhật qua truyền thông, tôi thử nêu vấn đề để tìm hiểu. Trước hết phải tìm các mẫu số chung về vấn đề con người, đất đai, thời tiết – thủy văn, thị trường và bao trùm hết thảy là vấn đề thể chế chính trị - kinh tế, để so sánh sự khác biệt.
Về con người, tôi nhớ ba tôi hay khen người Campuchia chân chất, nói sao làm vậy, thủy chung, họ rất biết sợ và tin chính quyền, tin Trời Phật, biết sợ có tội nếu làm hại người khác...Cái “mẫu số” này hỏi thử dân ta có bao nhiêu phần trăm so với họ? Gạo nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, cá tôm nhiễm kháng sinh, kể cả đầu tôm có đinh hoặc rau câu. ...Đâu chỉ có một mình nông dân là thủ phạm mà các chủ doanh nghiệp và chính quyền lại vô can? Việc này các cấp quản lý từ thấp tới cao ở ta ai cũng biết nhưng không ai làm gì hết, thậm chí không nói mà đành nhìn những “công” hàng bị trả về, bị khách hàng quen cũ từ chối mua tiếp, thị trường truyền thống bị teo tóp lại...
Về đất đai, giữa ta và bạn tuy không khác biệt về thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn, nhưng quan hệ sở hữu, hạn điền...là cái kềm “kẹp” tâm lý, tình cảm nông dân trong cái vòng luẩn quẩn của việc mưu sinh (tính không ra) và tất yếu là “hạn chế” luôn cái làm giàu. Ta nói “phải bảo đảm cho nông dân có lãi tối thiểu 30 %”, nhưng lãi 30% trên diện tích 0,5 – 1,5 hoặc 03 hecta là rất khác nhau nếu tính trên số lãi tuyệt đối.
Đó là chưa nói lãi 30% trên diện tích 30 hec ta còn lớn hơn đến cỡ nào. Mà phải có 10 hay 20 hecta hoặc hơn nửa để trực canh, nông dân mới giàu. Còn năng suất lúa Việt Nam có lẽ cao nhất Đông Nam Á, nhưng giá thành cũng cao nhất, vì thủy lợi phí, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công chăm sóc...(và có cả “địa tô mới” gọi là tiền thuê đất) quá lớn trong cơ cấu giá thành, nên giá bán lúa tại ruộng cũng rất cao. Đó là chưa kể vấn đề cảng – vận tải biển của ta có chi phí cao hơn nên giá gạo xuất khẩu tại cảng (FOB) phải rẻ hơn v.v... Do đó, năng suất lúa càng cao giá thành cũng càng cao nhưng giá bán luôn ngược lại. Cái nghịch lý: Càng làm lúa càng nghèo là vậy!
Về thị trường, vì “gạo trắng Việt Nam” là thương hiệu “gạo giá rẻ” trên thị trường quốc tế lâu nay, không ai cạnh tranh mà có lần một quan chức cao nhất ngành kinh tế nông nghiệp nước ta nói với tôi: “Là một lợi thế cạnh tranh của gạo Việt Nam”. Tôi hiểu ý ông nói là cạnh tranh trên thị trường gạo ở các nước nghèo. Người nghèo ở các nước ăn gạo Việt Nam – giá rẻ, dần rồi một số họ cũng tự túc lương thực, trồng khoai củ thay gạo, một số “thoát nghèo” ăn gạo ngon, số sợ bệnh hạn chế ăn tinh bột gạo, cho dù gạo ngon. Mặt khác, các nước có tiềm năng lớn về trồng lúa nước như Campuchia, Myanmar cũng bắt đầu cạnh tranh với ta. Như vậy, người ăn gạo “giá rẻ” có xu hướng giảm và diện tích canh tác lương thực có xu hướng tăng. Vậy sao ta cứ giữ diện tích, sản lượng gạo loại này? Bán cho ai?
Thương hiệu và sự mất.. độc quyền
Nhân nói gạo cao cấp, thấp cấp, có người muốn Việt Nam trồng lúa chất lượng cao để cạnh tranh với gạo Thái (!) và phải xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam. Câu chuyện này có thời gian nói, bàn và làm từ khi ta xuất gạo từ vài triệu tấn, đến khi cao nhất trên 07 triệu tấn/năm và 2016 xuống còn trên 05 triệu tấn...vậy mà vẫn còn nói và nói.
Vậy làm thương hiệu khó lắm phải không? Khó! Vì là làm chớ không phải là nói hoặc dùng tiền mà mua được thương hiệu. Vậy thương hiệu là gì? Nói nôm na: Thương hiệu là cái nhãn hiệu hàng hóa được người mua tin và tìm mua. Có những thương hiệu thành quốc hiệu. Ở Việt Nam bây giờ, “thương hiệu” là vấn đề niềm tin. “Niềm tin” lương thực, thực phẩm sạch bây giờ linh thiêng hơn hết, vì ăn nhằm “độc chất” thì cái chết sẽ gần hơn! Tạo thương hiệu cho lương thực-thực phẩm nội địa cho khách hàng trong nước còn khó, huống chi cho khách hàng ngoài nước?
Chúng ta đã bàn nhiều về chuyện “Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam” nhưng tôi vẫn chưa hình dung xây dựng bằng cách nào? Sao làm hoài mà không có gạo thương hiệu? Trong khi tính xây dựng “thương hiệu gạo Việt” ta có bài học kinh nghiệm nào về việc để mất thương hiệu độc quyền tự nhiên cá ba sa, mất cả nghề nuôi truyền thống loài cá quí hiếm này và đang sắp mất thương hiệu cá tra như vết xe đổ của con cá ba sa?
Muốn có gạo thương hiệu phải có tiền đề: Giống (di truyền hoặc lai tạo – có bản quyền); đất, nước và khí hậu ở vùng thích hợp gieo trồng; công thức chế biến, pha trộn tạo ra thương hiệu riêng của nhà cung cấp. Ngoài ra, phong cách làm ăn của nhà cung cấp cũng góp thêm niềm tin trong thương hiệu sản phẩm, hoặc chỉ riêng dịch vụ của nhà cung cấp cũng tạo được thương hiệu riêng cho sản phẩm – doanh nghiệp. Như vậy, thương hiệu gạo quốc gia chủ yếu dựa vào giống (của quốc gia), vùng sản xuất có lợi thế và chế độ canh tác cho sản phẩm thuần, đồng nhất, ổn định, cung cấp sản lượng lớn cho nhà buôn, có sự trợ giúp của nhà nước, nhà khoa học, sự giác ngộ và sản xuất có tổ chức của nhà nông.
Gạo thương hiệu – nhãn hiệu là do người tiêu dùng chọn, do nhà doanh nghiệp tạo dựng (chọn lọc tự nhiên hoặc pha trộn) không nhất thiết phải thuần giống nào, nhà nước có trách nhiệm bảo hộ thương hiệu ấy.
Trở lại chủ đề “Việt Nam sang Campuchia học làm lúa gạo” tôi không có thông tin về kết quả của chuyến đi, nhưng tôi có suy nghĩ: Cái gì họ khác ta, làm nên sự khác biệt để vượt trội thì đó là cái cần học. Cái đó chính là những vấn đề cơ bản nêu trên. Ngoài ra, một vấn đề cốt lõi luôn thời sự là họ ít nói mà làm nhiều. Đó cũng là một sự khác biệt lớn hơn ta!
Nguyễn Minh Nhị
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét