Ông Bùi Diễm
Kể từ 1975, tại các thư viện Hoa Kỳ thấy xuất hiện rất nhiều hồi ký của các nhân vật quan trọng Việt, Mỹ, viết về vấn đề Việt Nam. Trong số những tác giả, về phía Mỹ, nổi bật là các Tổng thống Richard Nixon, Lyndon Johnson, các Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara, Ngoại trưởng Kissinger, các tướng Westmoreland , Maxwell Taylor, Giám đốc Trung ương Tình báo William E. Colby, Đại sứ Frederick Nolting và nhất là Đại sứ Henry Cabot Lodge với cuốn: “The Storm Has Many Eyes”.
<!->
Về phía Việt Nam, không kể cựu hoàng Bảo Đại với cuốn Con Rồng Việt Nam (Le Dragon d'Annam), và rất nhiều tác giả các hồi ký trong tù của Cộng sản, thì có các tướng: Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Đôn… và sau hết, nhưng quan trọng nhất, là cựu đại sứ Bùi Diễm với “In The Jaws of History” viết chung với Channoff, xuất bản năm 1987 và vừa dịch ra tiếng Việt là “Gọng Kìm Lịch Sử”, do cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, đã được giới thiệu ra mắt tại quận Cam ngày 9/12/2000.
(Xin mở dấu ngoặc để nói rõ sáu vị cuối cùng từ tướng Đỗ Mậu đến cựu đại sứ Bùi Diễm đều là những người chống TT Ngô Đình Diệm và hoặc có dính líu vào việc lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa).
Ngoài những tác giả viết hồi ký trong tù Cộng sản ra, tất cả những tác giả Việt cũng như Mỹ nêu trên đều là những tác giả của loại hồi ký chính trị. Vì họ đều là những người làm chính trị, lại từng nắm giữ những vai trò quan trọng trên chính trường, nên qua hồi ký của họ, độc giả sẽ thấy được phần nào tình hình thời cuộc trong một giai đoạn nào đó. Dĩ nhiên, mỗi người có một hoàn cảnh riêng, và cái nhìn riêng về thời cuộc. Ví dụ, 6 người chống TT Ngô Đình Diệm và làm đảo chánh, thì động cơ chính của của họ, là biện hộ cho hành động của họ mà ngày nay họ đã thấy rõ là bị nhiều người lên án. Nhưng đọc nhiều người, rồi đúc kết và gạt ra ngoài những nhận định chủ quan và đối chiếu-so sánh các quan điểm của nhiều người, thì cũng có thể có một nhận định khá chính xác, tuy không đầy đủ của tình hình trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Tác giả càng có kiến thức rộng và càng thành thực, thì độc giả càng có được một bức tranh chính xác về thời cuộc.
Chúng tôi vừa nói trong số 6 người viết hồi ký nhằm biện hộ cho thái độ hay hành động chống cố TT Ngô Đình Diệm, và nhúng tay vào việc lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa, quan trong nhất là cựu đại sứ Bùi Diễm… vì chẳng những tác phẩm của ông được viết bằng hai thứ tiếng và bề dầy của nguyên tác bằng Anh ngữ cũng hơn hẳn các hồi ký của tướng Kỳ, tướng Đôn. Còn tuy bản dịch Việt ngữ không “vĩ đại” như cuốn “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” của tướng Đỗ Mậu, dày đến 1200 trang, nhưng đã được viết một cách hết sức cẩn thận bằng một giọng văn sáng sủa, lưu loát đầy cân nhắc, chừng mực và chững chạc, chứ không hằn học, hậm hực như giọng văn của tướng “văn hóa xã hội” Đỗ Mậu.
Thân thế tác giả
Qua 35 chương của nguyên tác, hay 37 chương của bản dịch, kèm theo khoảng ba chục tấm tình xen vào giữa sách, tác giả đã cho biết rõ về thân thế, sự nghiệp cao sang và ảnh hưởng sâu rộng của đời hoạt động chính trị của ông “có tính quyết định đến số phận nhân dân Việt Nam”.
Dòng họ ông dã từng có người làm qua đại thần trong triều
Chính ông, là con học giả phó bảng Bùi Kỷ. Ông còn là cháu ruột của sử gia Thủ tướng Trần Trọng Kim. Về hoạt động chính trị và cách mạng, ngay từ khi còn đi học ông đã có dịp “gặp” ông Hồ Chí Minh và chứng kiến tài đóng kịch gỏi của ông này, và mặc dù còn ít tuổi như vậy, mà đã thấy được ông Hồ sau này sẽ là người “không thiếu thủ đoạn chính trị”. (bản Việt ngữ trang 68). Ông tuyên thệ gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng rất sớm (bác sĩ Phan Huy Quát lúc ấy mới chỉ là cảm tình viên) và còn được cố đảng trưởng Trương Tử Anh tin dùng ngay và giao cho nhiệm vụ liên lạc giữa ông và thủ tướng Trần trọng Kim. Ông cũng sớm làm quen với bác sĩ Phan Huy Quát, ngay từ khi ông ông này là Đổng lý văn phòng cho chú ông. Cho nên khi bác sĩ Quát liên tiếp 4 lần giữ những chức Bộ trưởng trong thời Quốc trưởng Bảo Đại, thì ông đã trở nên quen thân, đến độ, khi nước nhà bị chia đôi vào năm 1954, chính ông đã tìm gặp quốc trưởng Bảo Đại để “lobby” cho bác sĩ Quát thay Thủ tướng Bửu Lộc, mặc dù biết tài của ông Bộ trưởng Quốc phòng (2 lần) lại không chọn ông Quát mà vì “tình riêng” (bạn học cũ) với ông Ngô Đình Luyện mà đi năn nỉ ông Ngô Đình Diệm. (bản Anh ngữ, trang 83-84).
Khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị một số nhà trí thức trong nhóm Caravelle chống đối, thì chính ông Bùi Diễm là người đã giúp soạn thảo bản tuyên bố (bản tiếng Anh, trang 94) gọi là “bản tuyên ngôn Caravelle (the Caravelle Mannifesto).
Hai lời khen: Thành thực và can đảm
Nhiều người đã ca tụng tác phẩm của ông Bùi Diễm trên báo, trên đài. Và tôi cũng đã được nghe những lời tán thưởng của Đỗ Văn trên đài BBC cách đây hơn một thập kỷ.
Riêng phần tôi, sau khi đọc hết cuốn sách, tôi nhận thấy có hai ưu điểm, xin được nêu ra ở đây. Trước hết, là sự thành thật của một nhà ngoại giao chính cống. Người ta thường nói: Mồm mép nhà ngoại giao, để ngụ ý thiếu thành thực. Nhưng có lẽ là ngoại lệ. Cựu đại sứ Bùi Diễm đã tỏ ra thành thực trong khi ông viết cuốn “Gọng kềm lịch sử”. Hay ít nhất, ông cũng đã làm cho người đọc có cảm tưởng như thế. Tôi chỉ đan cử một vài ví dụ chợt thấy trong khi đọc nguyên văn bằng Anh ngữ, mà ông cùng viết với Chanoff, xuất bản năm1987.
Ông đã thành thực ghi rằng, ông có rất nhiều bạn Mỹ, và ông nêu ra một số tên, trong đó, có mấy nhà báo nổi tiếng đoạt giải về báo chí như: Neil Sheehan, David Halberstam, Malcolm Brown… trong số những nhà báo mà cựu Tổng thống Nixon đã quy cho trách nhiệm làm Mỹ thất trận ở Việt Nam, và có lẽ khi Võ Nguyên Giáp nói báo chí Mỹ đã giúp ông ta một tay đắc lực, thì cũng có ý nói những nhà báo vừa kể (trang 101).
Ông cũng không ngần ngại nói rõ liên hệ và sự cấu kết giữa ông và Phillipp Rufus là bộ hạ của đại sứ Cabot Lodge trong khi đang xảy ra cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963, vì Rufus luôn kề cận với tướng Lê Văn Kim là người phụ trách về chính trị trong nhóm tướng lãnh làm đảo chánh, cũng y hệt như Lucien Conein luôn kề cận tướng Đôn là anh vợ của tướng Lê Văn Kim (trang 101-102). Điều đó, cho thấy ông Bùi Diễm rất tích cực trong cuộc đảo chánh, mặc dù không hành động công khai.
Ông cũng không úp mở viết rõ: người Mỹ đã đưa những đơn vị (thủy quân lục chiến) đầu tiên vào Việt Nam tại Đà Nẵng ngay ít ngày sau khi bác sĩ Phan Huy Quát nhận chức Thủ tướng từ tay tướng Nguyễn Khánh, để mở đầu cho cuộc Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam. Và cũng không che dấu việc ông là Bộ trưởng phủ Thủ tướng, nghĩa là cánh tay phải (hay tay trong) của bác sĩ Phan Huy Quát vào chính lúc đó. Ngay ở những chương đầu cuốn hồi ký ông Bùi Diễm cũng nói rõ, ông đã đích thân gặp cựu hoàng Bảo Đại ở Pháp trong hội nghị Geneve đang họp để vận động cho bác sĩ Phan Huy Quát thay thế Thủ tướng Bửu Lộc. Nhưng Bảo Đại đã chọn ông Ngô Đình Diệm. Rồi có lúc ông còn “khoe” là chính ông đã thảo bản tuyên ngôn của nhóm Caravelle. Điều này, thì ông Trần Anh Tuấn, trong số báo Thế Kỷ 21 cho là khoe khoang không đúng. Nhưng riêng người viết, lại thấy rất có thể đúng, vì dầu sao ông cũng rất thân cận với bác sĩ Phan Huy Quát, nhưng ông thảo với sự hướng dẫn của ai, thì ông không nói.
Ông đã thành thực ghi nhận là bác sĩ Phan Huy Quát (chắc là nghe lời “quân sư”, Bộ trưởng phủ Thủ tướng của mình) đã “miễn cưỡng thỏa thuận” cho Mỹ đem quân tác chiến đầu tiên vào Việt Nam (Đà Nẵng). (Bản tiếng Anh, trang 141, và bản Việt trang 237). Mặc dù trước và sau khi viết những hàng “thú nhận” đó, ông đã dài dòng thanh minh và cho thấy ông và bác sĩ Phan Huy Quát đã bị kẹt cứng, nên chỉ làm vì bất đắc dĩ. Có lẽ ông đặt tên cuốn hồi ký “Gọng Kìm” là đã nói lên cái thế kẹt của các ông trong trường hợp này chăng ? Nhưng “kẹt” cứng như vậy, mà còn cố vùng vẫy được để múa bút cho ra cuốn hồi ký đồ sộ như vậy, thì thật là can đảm.
Nhưng ông Ngô Đình Diệm, ông Ngô Đình Nhu đã bị sát hại, vì không khuất phục trước bạo lực, và không chịu nghe lời khuyên của Cabot Lodge đến tòa đại sứ lánh mặt. Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, năm vị tướng thà tự kết liễu đời mình, chứ không chịu hàng địch theo lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, và Phan Huy Quát chết rũ tù do chế độ tàn bạo của Cộng sản Việt Nam cũng đến phải chào thua…
Ông cũng thành thực nói lên nhận định của ông đối với cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ban đầu ông bảo “ông Diệm là người sắc sảo, tinh khôn (trang 87 ông dùng tính từ astute, có nghĩa tốt mà cũng có nghĩa xấu. Đây là một cách chơi chữ sắc sảo tinh khôn, vì nó còn có nghĩa là “láu cá, khôn vặt, ranh mãnh”). Nhưng rồi, ông chê là “độc tài, gia đình trị và đàn áp Phật giáo”, nhưng lại cũng thành thực ghi rằng lỗi nặng hơn là Giám mục Ngô Đình Thục và cố vấn Ngô Đình Nhu mà ông gán cho tính từ “nham hiểm” (machievellian). Do những gì ông tường thuật lại vụ Phật giáo, người đọc sẽ thấy luận điệu của ông giống như luận điệu của những nhà báo Mỹ thiên Cộng và/ hoặc sẵn ác cảm với “nhà Ngô”, hoặc bị chi phối bởi những nhà ngoại giao của đảng Dân Chủ lúc ấy là các ông Averell Harriman, Roger Hilsman, George Ball, và 2 ông H.H. làm thành một nhóm mệnh danh là nhóm “Diệm must go”, quyết triệt hạ ông Diệm bằng mọi cách. Trong cuốn: Ngô Đình Diệm, Lời khen, Tiếng Chê, chúng tôi đã nói kỹ về hai nhân vật này và mấy nhà báo mà ông Bùi Diễm quen thân và có nhắc đến như chúng tôi đã nói ở trên.
Sự thành thực cuối cùng này, cũng cho ta thấy tác giả “Gọng kìm lịch sử” lại một lần nữa chứng tỏ ông cực kỳ can đảm, vì (mặc dù bị kẹt cứng trong gọng kìm) vẫn dám lội ngược dòng lịch sử. Vì cho đến nay, vụ phật Giáo năm 1963, đã được không biết bao nhiêu nhân vật lỗi lạc Hoa Kỳ và các nhà báo, nhà viết sử nổi danh lên tiếng quả quyết, đó chỉ là một màn ma mớp chính trị của những kẻ muốn hãm hại anh em của TT Ngô Đình Diệm, hoặc của những kẻ đã mắc mưu Cộng sản, cố tình làm suy yếu hàng ngũ quốc gia. Hãy chỉ sơ qua vài tên tuổi và sự việc. Trước hết, là cố Tổng thống Nixon. Rồi đến cựu hoàng Bảo Đại. Rồi một lô nhà báo nỗi tiếng của Mỹ, dĩ nhiên không thân Cộng, như Margueritte Higgins với “Our vietnam nightmare”, Allen Hammer với “A Death In November”,… và gần đây nhất, là giáo sư Francis Xavier, Úc với tác phẩm: “Lodge in Vietnam”, Semour M. Herech với “The Dark Side of Camelot” (ông này không nhấn mạnh vấn đề Phật giáo, nhưng đã đưa ra ánh sáng những mưu tính thiếu đạo đức của chính quyền, thậm chí của chính Tổng thống Kennedy, mà dân Mỹ qua báo chí đã có thời coi như thần tượng của họ. Nhưng, khi người ta đọc đã thấy chính quyền Kennedy quyết tâm tìm mọi cách để hạ TT Ngô Đình Diệm, thì cũng thấy ngay biến cố Phật giáo không còn mang tính thuần túy tôn giáo nữa; mà đã là chính trị, lại nhằm lật đổ chính phủ hợp hiến-hợp pháp, thì đó là làm loạn, và chính quyền có lý do chính đáng để có những biện pháp mạnh, để dẹp loạn). Đáng kể hơn nữa, là báo cáo của phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới Việt Nam điều tra về những lời tố cáo chính quyền TT Ngô Đình Diệm “đàn áp, kỳ thị Phật giáo”. Phái đoàn này đã phúc trình rằng: Không có đàn áp hay kỳ thị. Nhưng, Bản phúc trình cả trăm trang này đang được dịch ra tiếng Việt, đã bị ông Cabot Lodge “dàn xếp” với trưởng phái đoàn Liên Hiệp Quốc, để ém nhẹm đi, không đưa ra thảo luận tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Theo như con gái của vị trưởng đoàn, sau này, đã thổ lộ với bà Claire).
Sau cả ngần ấy tài liệu, mà nay ông Bùi Diễm vẫn còn cố tình đi ngược dòng lịch sử, để kết tội TT Ngô Đình Diệm, thì lại một lần nữa, chứng tỏ ông Diễm vô cùng “can đảm”.
Tóm lại, chúng tôi thấy qua quyển hồi ký “Gọng kìm lịch sử” (In The Jaws of History) người ta thấy ông Bùi Diễm là người khá “thành thực” và qua sự thành thực đó, ta thấy được một số chuyện, khiến phải thêm rằng: ông cũng rất “can đảm”.
Một tiếng chê
Đã đành viết hồi ký, thì không thể tránh được cái tôi đáng ghét. Ông nào thì cũng thế thôi. Điều đó, chẳng đáng trách. Nhưng đã có thời từng là nhà cách mạng (Đại Việt ban đầu là một đảng cách mạng, sau mới trở thành “Đại Việt Quan Lại”) lại từng rất thân với cố đảng trưởng Trương Tử Anh, mà ngoài cái tôi ra ông không nêu ra những thành tích chống Pháp, chống Cộng của lãnh tụ của ông cũng như của biết bao đồng chí khác. (những thành tích này, cố nhiên phải nhiều nên Đại Việt mới trở thành một đảng lớn có tiếng tăm như ta biết).
Ông đã viết rằng: năm 1946 vô số đồng chí của ông đã bị Việt cộng tàn sát trong thời gian ông Hồ Chí Minh bận sang Pháp thương thuyết. thế mà ông không nhắc gì đến những nạn nhân này, và sự ám hại dã man của đàn em ông Hồ ra sao. Khi nêu lên sự việc tay chân của ông Hồ tàn sát… trong lúc ông Hồ ở ngoại quốc, có phải ông Bùi Diễm muốn chạy tội cho ông Hồ không, mà trong cả cuốn sách chỉ thấy ông nhắc qua tên Hồ Chí Minh có mươi lần, và lại không hề có một lời tố cáo tội ác của ông ta, chỉ có một câu nhẹ nhàng rằng : “ông Hồ đóng kịch giỏi và sau này sẽ không thiếu thủ đoạn” (bản Việt ngữ, trang 68). Đó là trong bản Việt ngữ xuất bản năm 2000, chứ còn trong bản Anh ngữ, thì rõ ràng ông Bùi Diễm đã phục lăn ông Hồ rồi. Đây là nguyên văn bản Anh ngữ:
“But I thought to myself nevertheless that this was a truly capable man relaxed and unflappable – a consumate politician.” (Nhưng tuy nhiên, tôi tự nghĩ trong thâm tâm rằng ông này quả thực là người có khả năng, bình thản, không có gì có thể làm cho bị lung túng-đúng là một chính trị gia tài giỏi tuyệt vời).
Tại sao lại có chuyện thay đổi từ chỗ ca tụng lên đến mây xanh thành phê bình nhẹ nhàng như vậy nhỉ ?
Một vài thay đổi thêm bớt trong bản dịch
Không cần đọc kỹ lắm, cũng thấy tác giả “Gọng kìm lịch sử”, khi dịch tác phẩm của mình đã còn có nhiều thay đổi khác, mà chúng tôi chỉ nêu ra một vài chỗ:
- Về tuyên ngôn Caravelle trong bản tiếng Việt xuất bản năm 2000 (trang 161) ông Diễm đã bỏ không dịch câu: “I helped draft the letter” (bản anh ngữ trang 94).
Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại là khi cuốn: Ngô Đình Diệm Lời khen, Tiếng chê của Minh Võ viết theo tác giả “In The Jaws of Hitory” rằng ông Bùi Diễm làm phim “Chúng tôi Muốn sống”, thì có người nói: “Phim đó, do ông Vĩnh Noãn làm, chứ đâu có phải ông Bùi Diễm”. Có lẽ lời đó đến tai ông, nên trong bản tiếng Việt năm 2000 ông có thêm là phim đó do ông Vĩnh Noãn đạo diễn, và ông Phan Huy Quát là một trong những sáng lập viên của công ty Tân Việt Điện Ảnh.
Nơi chương 19 nói về diễn văn ông Bùi Diễm đã thảo cho ông Nguyễn Cao Kỳ đọc ở hội nghị thượng đỉnh Honolulu, bản Anh ngữ ông nói chỉ có một người duy nhất (the only person) giúp ông soạn thảo là ông Nguyễn Ngọc Linh (trang 160). Nhưng ở bản Việt ngữ, thì ông lại kể thêm ông Vũ Đức Vinh (trang 266-267). Điều khác đáng chú ý, là nhà báo Stanley Karnow trong cuốn “Vietnam A History lại bảo bài diễn văn của ông Kỳ là do các cố vấn Mỹ soạn. Ông Diễm quả quyết là ông Karnow viết sai sự thật. phải chăng những lời lẽ, văn phong và cả ý tưởng của ông Diễm đã Mỹ hóa đến độ nhà báo sành sỏi lỗi lạc Karnow cũng phải lầm là “chỉ có Mỹ mới viết được hay như vây ?”.
- Trong bản Anh ngữ, ông Diễm viết rằng: “những người ký tên trong bản tuyên bố Caravelle bị nhà cầm quyền bắt giam”. (“police began rounding up the signers and throwing them in jail…” trang 95). Nhưng Minh Võ trong cuốn NĐDLKTC lại trưng bằng chứng (trích từ hồi ký của Nguyễn Chánh Thi) nói rằng ông Phan Quang Đán đâu có bị bắt lúc đó, vì ông ta còn tự do tham gia đảo chính 1960 cơ mà. Có lẽ cũng đã đọc trong NĐDLKTC, cho nên, trong bản Việt ngữ, tác giả Bùi Diễm đã cho thêm vào hai chữ: “hầu hết”(đã bị bắt). (trang 161).
- Trong bản tiếng Anh, ông Diễm viết là ông Ngô Đình Diệm chỉ tin dùng người trong gia đình (trang 88). Nhưng trong bản tiếng Việt, thì ông thêm mấy chữ: “hay một vài người thật thân cận với ông” (trang 149). Có lẽ trong vòng 13 năm đó, ông đã nghe ai dó trưng dẫn sự việc Tt Ngô Đình Diệm đã dùng nhà Bác học duy nhất của Việt Nam lúc ấy, là giáo sư Bửu Hội, không phải người trong gia đình, cũng không phải là người đồng đạo; đó là, chưa kể các đại sứ Hà Vĩnh Phương, Nguyễn Duy Toản… hay các ông Nguyễn Ngọc Thơ, Quách Tòng Đức, Đoàn Thêm, Võ Văn Hải, đại úy Đỗ Thọ, giáo sư Tôn Thất Thiện… Chỉ nguyên ở Phủ Tổng thống, đã có từng ấy người không phải là đồng đạo hay trong gia dình, họ hàng gì của “nhà Ngô”. Và ngay chính người thân cận nhất của ông Ngô Đình Nhu là Trung tá Phạm Thư Đường, Chánh văn phòng của cố vấn, cũng là một Phật tử, và không phải là người Trung, hay người của gia đình họ Ngô. Đặc biệt là ông Cao Xuân Vỹ, phụ tá cho ông Ngô Đình Nhu trong chức Tổng thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, người đã lăn vào chỗ chết để tìm đường thoát cho hai ông Ngô Đình Diệm và Ông Ngô Đình Nhu vào lúc dinh Gia Long và Lữ đoàn liên binh phòng vệ phủ Tổng thống bị tấn công vây hãm nguy kịch nhất. Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Đại úy Đỗ Thọ cũng là những Phật tử sùng đạo, chẳng có liên hệ gì đến họ Ngô, tại sao cũng trung thành với “nhà Ngô” cho đến phút chót ? Một người chỉ huy binh sĩ của Lữ đoàn chiến đấu cho đến khi được lệnh ngưng bắn, một người tình nguyện đi theo Tổng thống cho đến khi bị bắt, và đã viết nhật ký thổ lộ hết lòng cảm phục và thương mến một vị Tổng thống, mà còn xem như cha đẻ. Và còn rất nhiều lắm lắm, làm sao kể cho hết những người trong chính phủ, trong quân đội, và các Tổng Giám đốc, Giám đốc được chính phủ TT Ngô Đình Diệm trọng đãi, mà đâu phải là người trong gia đình của họ Ngô. Có lẽ vì nhiều người đã viết, đã nói như thể phê bình những kẻ xuyên tạc rằng “ông Diệm chỉ tin dùng người trong gia đình” cho nên, 13 năm sau, ông Bùi Diễm đành phải thêm mấy chữ: “hay một vài người thật thân cận với ông”. Nguyên cả câu của ông Diễm, trong bản tiếng Việt, trang 149 như sau:
“Ngoài những người trong gia đình ông hay một vài người thật thân cận với ông, ông không tin và cũng không cần tới ai”.
(Xem tiếp phần 2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét