Giảng luận câu ca dao :
‘Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao cô múc
ánh trăng vàng đổ đi ?!’
nt
Hai câu trên thực sự vốn là ca dao hay chính là hai câu thơ của thi sĩ
Bàng Bá Lân đã được truyền tụng để trở thành ca dao. Dù là lời của nguời bình
dân xa xưa hay của chính nhà thơ Bàng Bá Lân thi hai câu Lục Bát trên cũng mang
chở âm hưởng vui vui, thơ mộng, phản ảnh tâm tình tác giả cùng một ý nghĩa xa
xôi, lẩn khuất của tâm hồn Việt Nam.
<!-->
Công việc nhà nông quả lao đao, vất
vả. Làm việc cả sáng, cả trưa, cả chiều, cả tối. Nghề nông hầu như không theo
một thời biểu nhất định. Công việc làm tùy theo tiết điệu của thiên nhiên. Tuy
bốn mùa tuần tự, nắng mưa có kỳ nhưng nhiều lúc thiên nhiên cũng lắm trớ trêu,
ngang bướng. Mưa có khi đến sớm, có lúc trễ dài ; nắng có lần rất gắt, có
thưở lại ‘ngủ’ li bì. Do đó mà lao động của nhà nông xưa khó lòng dược phân bố
theo một lịch trình nghiêm nhặt. Cũng do đó mà nhà nông lúc chân lấm ta bùn
ròng rã, lúc lại rãnh rang, nhàn nhã, rong chơi.
Từ đó, người bình dân ta xưa hầu như
được thiên nhiên ban cho ‘ân huệ’, tạo cho cái tính ‘nghệ sĩ’ rất hồn nhiên. Giữa
buổi làm lại nghỉ, đang giờ nghỉ lại làm ; trời chưa mưng sáng đã ra đồng,
mặt trời chưa đứng ngọ đã dừng tay cuốc ; ngày mưa tầm tả vẫn áo tơi lam lữ trong lúc nắng sáng, chiều
êm lại nhởn nhơ dạo mát hay lân la đầu xóm cuối làng chuyện vãn ; cày chưa
mấy luống đã lên, nghỉ việc ăn khoai, hút điếu thuớc lá khói bay dìu dặt ;
cấy chưa mấy hàng đã lên bờ nhai miếng trầu bỏm bẻm, uống chút nước trà hương
thơm thoang thoảng ; trong lúc về khuya lại thi nhau giả gạo hay canh cửi,
thêu thùa,…Cứ như thế, làm và nghỉ, nghỉ và làm chen nhau từng lúc. Chịu khó,
cần cù có thừa nhưng trễ nãi, buông lơi cũng lắm. Làm rất nhiều nhưng năng suất
chẳng bao nhiêu.
Xin đừng so sánh với công nhân nhà
máy hay nông dân có máy cày, máy gặt. Nơi đó, thiên nhiên nhuờng bước cho lich
trình sinh hoạt được ấn định rõ ràng. Cũng xin đừng vội vàng so sánh nơi nầy
nơi nọ, miền Nam, miền Bắc, vùng cao vùng xuôi. Dĩ nhiên, đất nghèo thì phải
quần quật quanh năm ; đất giàu thì rãnh rỗi, an nhàn. Xin nhìn chung vào
cái tiết điệu của việc làm.
Nhưng dù có làm cho mấy thì cũng chỉ
đủ ăn, may ra dành dụm ít nhiều chứ khó
lòng thừa thải. Vả, thiên nhiên hầu nhu cũng chẳng cho tích lũy được
nào. Có ra công lao động bao nhiêu cũng lưng lưng vừa tầm cuộc sống. Cuộc sống
của người nông dân ta xưa, nhin chung, tất cả đều hầu như thế. Xin không dông
dài đề cập đến cuộc sống vất vả, nghèo nàn của người nông dân ta xưa (nay dưới chế độ
Cộng sản cũng thế thôi). Xin đi vào nội dung câu ca dao để
nhận ra ý nghĩa thâm sâu của lời thơ.
Người nông dân ta xưa vừa làm vừa
‘chơi’. Không phải họ không làm mà làm trong tâm trạng khá nhàn. Bao giờ cũng
như quanh quẩn bên họ cái nhẹ nhàng lơi lơi của thần trí, nghĩa là họ không bị
cuốn hút vào tính cách cơ năng của công việc. Và hầu như lúc nào cũng câu đùa,
lời tình lãng đãng.
-‘Cô kia cắt cỏ một mình
Cho
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng’
-‘Ở đây đất đỏ mây vàng
Em đi làm mướn gặp chàng làm thuê
Yêu nhau ta đưa nhau về
Làm mướn là vợ, làm thuê là chồng’.
Có ai làm việc mà luôn ca hát như người bình dân Việt Nam. Hát ví, hát
dặm, hát trống quân, hát chèo, hò khoan, hò nện, hò mái nhì, hò mái đẩy, hò cò
lả, hò Ðồng nai, hò Rạch giá, lý cây lựu, lý con sáo, lý ngựa ô, hát ru con,
hát huê tình,…mỗi nơi một thể, mỗi mùa một điệu, mỗi sự việc một giọng ân tình
để người làm quê mệt, để việc làm thêm vui.
‘Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?!’
Cũng là câu hát. Có câu ca dao nào không là lời ca, tiếng hát ? Hát
trong đêm, hát trong giờ tát nước giữa lúc hai bàn tay nắm chặt dây gàu, bắp
thịt tay gân lên và đôi bắp chân săn lại. Chính cô gái hát hay một chàng trai
nào đó hát cũng chỉ để vui chơi, cũng chỉ để vơi đi mệt mõi. Tát nước về đêm,
tát nước trong đêm, hẳn là phải mệt. Việc làm ban ngày không hết, phải làm cho
kịp ban đêm. Ðêm là để nhìn trăng, ngắm cảnh, để kể chuyện nhau nghe, để xem
cải lương, tuồng cổ ; để nhậu nhẹt lai rai, nói chuyện tầm phào ; để
tình tự bên cạnh cầu ao hay nơi bụi trúc, để nghe giọng cò lả bay bay hay chọc
ghẹo nhau qua giọng hò đối đáp. Sao đêm lại phải giả gạo tay ba, phải cắt cỏ
cho trâu, phải quay tơ kéo chỉ, phải tát nuớc bên đường ? Câu hỏi mở ra
cho ta một cái hìn về tâm hồn Việt Nam.
Người Việt Nam ta xưa tỏ tình gay trong khhi lao động. Tâm tình trao
nhau trong khi lao động. Không phải tình yêu phục vụ cho lao động mà lao động
là dịp để tình cảm mở phơi. Không phải họ làm quần quật rồi lúc nhàn nhã, rãnh
rỗi mới nghĩ đến trao duyên tình ý. Ðiều đó có lẽ phần lớn do tính cách lao
động của nghề nông : lao động thủ công, không bị gò bó trong thứ thời gian
cơ giới, không bấm thẻ ghi giờ, không nghe chuông điểm giờ lên ca, không đợi
chuông reo cho xả hơi, ăn uống giữa giờ.
Câu ca dao hát lên trong giờ lao động để nàng thấy nhẹ tay gàu, để áo
nàng bớt đẫm mồ hôi, để hơi thở nàng bớt nặng, để nghe gió mát bám theo từng
tuyến mồ hôi còn nồng chất muối, nghe từng giọt máu tươi lưu thông từ con tim
ấm áp rộn ràng tình tự thôn trang.
‘Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?!’
Anh chàng ‘nghệ sĩ’ kia ơi ! Anh yêu lao động hay anh thuơng cho
nàng ? Anh ca tụng nàng siên năng, cần mẫn hay anh xót thuơng nàng vất vả,
lao dao? Anh ca ngợi nàng quán xuyến, tề gia hay anh ‘thương hại’ nàng chưa có
đấng trượng phu đẻ chia phần gian khổ ? Hay anh chỉ buông lời chòng ghẹo
cho vui ? Anh chòng ghẹo sao nghe ra ngu ngơ, âu yếm ! Anh hỏi hay
anh than hay anh trách ? Lời than để hỏi, câu hỏi để than, vì thương nên
trách và trách là để thương. Ngôn ngữ Việt Nam tròng tréo, nên thơ và ngộ
nghĩnh như thế đấy.
Thục sự không rõ ý chàng ra sao. Thương, than, hỏi, trách hay chòng ghẹo
giữa lúc cô nàng đang áo đẫm mồ hôi. Ðằng nào cũng được. Chỉ biết cô nàng hẳn
mắt long lanh và tim hồi hộp. Công việc sẽ theo cái sáng của mắt, cái thẹn của
tim mà trở nên nhẹ nhàng, thi vị. Giải thích như thế có thể không sai nhưng
chưa nhìn ra cái ý nghĩa thâm sâu của lời ca dao đơn giản.
‘Sao cô múc ánh trăng vàng đổ
đi ?!’
Cô kia, vâng, một cô nào đó, không quen, chưa quen, miễn là một cô gái, chắc còn trẻ. ‘Hỡi cô tát
nước bên đàng’, đúng vậy, cô đang tát nước ngay trên đàng tôi đi. Tôi bực qưá đi thôi ! Sao cô
không tát nơi khác mà chọn ngay nơi khúc đường mọi kẻ đi qua ? Tôi là kẻ
đang đi ngang qua đấy. Tôi khó chịu.
Nhưng nếu nêu rõ cái lý do tôi hỏi, chẳng là tôi phi lý quá sao ?
Ruộng cô ở sát bên đuờng mà bên kia đường là ao nước, là con lạch, cô còn biết
tát nơi đâu ? Tôi khó tính đến cái dộ không nhìn ra sự việc trước mắt đó
sao? Tôi không thể dè dặt buớc đi tránh cái ướt chân hay tôi không thể chịu khó
bị ướt chân một chút được sao ? Trong lúc cô vất vả về đêm còn tôi thì
rong chơi hay dù bận việc gì phải đi ngang qua đấy, lại chỉ vì sự việc nhỏ mọn
‘bị ướt chân’ mà trách cứ cô sao ?
Vậy không là câu hỏi, câu than, lời trách vì sự việc cỏn con đó.
‘Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?!’
Cô không làm ướt con đường tôi đi. Cô cũng không đang làm cái công việc
lao động vất vả. Cô chỉ múc đổ ánh trăng vàng. Ánh trăng vàng đẹp thế, cô múc
đổ đi đâu? Cô ghét gì nó, cô thù gì nó? ‘Múc, đổ’, hai động từ mạnh, hàm
ý rẫy ruồng, tức tối, ghét bỏ. Ánh trăng vàng đẹp quá, trăng vàng nào hại ai
đâu !
‘Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?!’
Câu ca dao không còn là lời trách, lời than,
câu hỏi. Câu ca dao cũng không là lời chòng ghẹo qua đường, ngẫu hứng cho vui.
Trên mặt ngữ pháp thì là lời than, câu hỏi ; trên âm điệu và qua ý nghĩa
của văn ảnh thì không còn là câu hỏi, lời than cũng không là lời chòng ghẹo.
Hỏi một điều chẳng thể giải thích ra sao
thì ‘đối phương’ còn biết đáp ứng ra sao được? Cứ cho là vậy đi nhưng sao bóng
gió lạ lùng.
‘Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?!’
Lời than tan trong câu hỏi, câu hỏi mất biến
trong lời than để không còn than hay hỏi
mà biến thành một lời thốt, một tiếng kêu, một ngữ điệu của tâm hồn truớc một
hiện thực. Mỹ tù pháp gọi đấy là ‘câu hỏi tu từ’, hỏi không với ai, hỏi không
cần được trả lời ; hỏi với mình thôi để nói lên một ‘tiếng lòng’ nào đó.
Có thể anh chàng đang đi, đến nơi
cô nàng tát nước, thấy đoạn đường loang loáng ánh trăng ; có thể đứng đằng
xa, nhìn mông lung, bất chợt thấy màu trăng long lanh qua nước từ chiếc gàu đổ
ra ; hoặc chẳng có cô nào đang tát nước, chẳng có con đường đang đi, chỉ
có mình chàng giữa trăng và nước hay nhìn trăng trong nước tại chiếc ao nhà hay
nơi thửa ruộng của mình, chàng bỗng ‘chợt
tĩnh’ một điều, một điều lâu nay không tìm ra giải đáp nên mượn lời
than, câu hỏi thốt lên :
‘Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?!’
Cái hiện thực –cô nàng đang tát nước- mất biến. Cái hiện thực được nâng
lên thành siêu thực hay cái siêu thục từ cao bay xuống thành hiện thực do chàng
hình dung.
‘Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi !’
Câu thơ là một văn ảnh lung linh, thơ mộng, ý nghĩa mênh mang.
Cô đang tát nước, thì cứ tát đi, sao cô không lo tát nước mà lại làm cái
chuyện ‘múc đổ trăng vàng’? . Cô không phân biệt được trăng và nước
sao ? Cô nàng -cứ giả thiết có một cô nàng đang tát nuớc- hẳn phải ngạc
nhiên, lúng túng, ngẩn ngơ đến độ nào trước câu hỏi lạ lùng của ai kia. Thì ra
thế, từ đầu hôm đến giờ, cô múc ánh trăng vàng mà cú ngỡ là đang tát nước.
Nhưng làm sao tách hai bên ra được ? Trăng vào nước và nước chứa trăng.
Trăng trên trời chỉ một, trăng trong nước muôn vàn. Tác động của người là chở
trăng theo nước. Trăng theo nước vào từng gàu, trăng theo nước tràn lan lai
láng, tỏa rộng trên đất, thấm vào từng ngọn cỏ, rể cây. Trăng vàng óng ả nơi
dòng sông, kênh lạch. Trăng bất tuyệt, trăng theo nước long lanh, diễm huyền.
Cô dù tát bao nhiêu, trăng nào có cạn. Trăng không vơi, trăng vẫn tròn đầy và
cô còn trải trang ra mông mênh, vô hạn. Múc ánh trăng là đổ nước vào ruộng
đồng. Tát nước đêm trăng là đưa trăng vào lúa mạ, nuôi mùa mànng tươi tốt. Ðể
làm gì ? Ðể còn được tát nước trong đêm nghĩa là nuôi cuộc sống. Tát nước
là múc ánh trăng, múc ánh trăng chính là tát nước. Cả hai chỉ là một. Nhưng ‘tát
nươc’ sao mà nặng nhọc, vất vả, còn ‘múc ánh trăng’ sao nhẹ nhàng,
thơ mộng làm sao ! Người bình dân đã thi vị hóa lao động đến thế là cùng.
Cô tàn nhẫn quá ! Cô múc đổ ánh trăng đi. Nhưng trăng thách thúc cô
đấy. Trăng trên trời chỉ một, trăng trong nước vô vàn. Trăng đến với
người trong từng công việc, tạo cho việc làm, cuộc sống thêm đẹp, thêm xinh. ‘Trăng trên trời là tính thể, trăng trong nước là nhập thế
hiện sinh’. Trăng trên trời là trăng
chớ trăng không chứa nước ; trăng vào trong nước chứ nước không vào trong
trăng. ‘Tính thể vào hiện hữu và hiện hữu
mang chứa tính thể’. Hiện hữu không là
tính thể nhưng là tấm gương soi tìm tính thể, phản ảnh tính thể và là nơi tính
thể thị hiện lung linh như ngàn trăng trong nước. Tùy theo hiện hữu mà tính thể
hiện bày : nước đục trăng lu, nước trong trăng sáng. ‘Công việc của con nguời là tát vơi dòng hiện hữu để tìm ra
tính thể nơi mình’. Mỗi tác động của từng hiện thể trong dòng
hiện hữu đều mang chở tính thể bên trong.
Nhưng dù tát bao nhiêu, trăng vẫn tròn đầy, vẵn luôn là trăng nguyên
thủy, vẫn sáng soi vùng nước bạc, vẫn thị hiện mơ màng đây đó, khắp nơi. Nhìn
trăng trong nước để nhận ra trăng cao trên trời, ‘nhìn
theo tay ta để thấy trăng chứ trăng không ở ngón tay ta’, đấy là
thể điệu thuyết pháp của ông giáo Thích
Ca dẫn môn đệ lang thang, la cà đầu rừng cuối rú.
Thực ra cô chỉ làm công việc tát nước thôi. Cô lo lắng cho cuộc sống của
cô, của gia đình cô. Cô vất vả, mệt nhọc, cô đâu để ý đến ánh trăng trong từng
gàu ước long lanh nhưng trăng vẫn ở trong nước ; trăng theo nước vào ruộng
đồng để tạo dưỡng chất cho trần gian được sống. Trăng nằm trong từng gàu nước
của cô ; cô không để ý nhưng trăng không vì thế mà không vào trong nước.
Mỗi người chúng ta là một cô tát nước đó. Mọi việc làm của ta cũng giống
hành động tát nước của cô ta. Tính thể nằm ẩn
trong mọi việc làm của ta : nói năng, cử chỉ, thái độ đối
xử, hoạt động mưu sinh, nghĩ suy, tư lự, buồn lo, giận hờn, băn khoăn, mừng
vui, tình tự, sáng tạo, phát minh,…
Chúng ta thường chỉ buông theo dòng hiện hữu chỉ chú tâm vào hiện hũu.
Chúng ta quên –hay không để ý- rằng mỗi
tác động hiện hữu của ta đều ẩn tàng hình ảnh của tính thể. Nếu cô tát nước
nghĩ rằng ‘tát nước là múc ánh trăng’, việc làm của cô đâu còn nhọc nhằn, nặng
nề mà trở thành vui chơi. Nếu mỗi chúng ta nghĩ rằng mỗi hành động hiện hữu là
để tìm về tính thể thì hiện hữu đâu còn vô thường, phi lý, bi đát, gảy đổ, buồn
nôn.
‘Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi !’
Từ một hình ảnh hiện thực –ánh trăng loang
loáng trong từng gàu nước dổ ra- người bình dân ta xưa (hay chính thi sĩ Bàng Bá
Lân)- đã vô tình hay cố ý nâng hình ảnh lên thành hình
tượng nghệ thuật vô cùng sinh động và vô cùng hàm súc. Cái hiện hữu có mang chở
tính thể theo mình thì cuộc sống mới nên thơ, hài hòa, vui đẹp. Tác động của người là đưa tính thể vào hiện hữu. Cuộc
sống có ý nghĩa hay không chính là ở đấy, theo người viết.
Tát nuớc là nỗi nhọc nhằn ta đang phải chịu, đấy là hình ảnh của hiện
hữu. Múc ánh trăng vàng đổ đi là hìNH Ảnh vơi quê khổ nhọc, buồn đau. Tát nước
hay múc ánh trăng đổ vào ruộng đồng chỉ dẫn đến kết quả nuôi ruộng đồng tươi
tốt phục vụ cuộc sống nhưng tát nước thì nặng nhọc mà múc ánh trăng lại nhẹ
nhàng, thơ mộng.
Trên một bình diện khác, ‘múc ánh trăng vàng đổ đi’ còn có nghĩa
tát cạn tính thể mình nhưng cũng chính do đó mà ‘tạo nên dưỡng chất trần
gian cho loài người tồn tại’. Nhưng ‘trăng trong nưuớc’ chỉ là bóng hình
của trăng cao trên trời, cái tính thể mà ta tát cạn nơi ta chỉ là hình ảnh của
cái tính thể uyên nguyên, nền tảng cho cuộc sống hiện hữu, cơ năng *.
Cuộc sống vốn dĩ là đau khổ, con người bị vong thân suốt mặt, miên viễn
vì không lưu giũ cái tính thể của mình, luôn luôn quên lảng, nhưng chính do sụ
quên lảng đó, sự ‘tát cạn tính thể’ nơi mình đến một thời điểm lại thốt
nhiên ‘hồi phục cái tính thể uyên nguyên’ vì lẽ Ðạo Trời vốn hiếu sinh (Thiên địa đại đức
viết sinh - lời đức Khổng). Ðấy là cái kỳ bí, huyền nhiệm
của hoạt sinh.
Dân tộc Việt Nam ta đã và đang sống trong cái ‘huyền nhiệm’ đó. Dân tộc
ta từ lâu, lâu lắm rồi, đã và đang phải ‘múc ánh trăng vàng đổ đi’,
nghĩa là đã phải dìm chết cái tinh túy của mình, phần lớn do bao chất ‘cuờng
toan’ ngoại lai nhưng cũng chính do đó mà ‘chở nước vào ruộng đồng’ nuôi
dưỡng cái tinh thần Việt Nam tồn tại qua bao thăng trầm oái oăm của lịch sử (xin không đề cập đến dòng ‘Sử Mệnh VN’ vì sẽ rất dài dòng).
‘Hỡi cô tát
nước bên đàng
Sao cô
múc ánh trăng vàng đổ đi !’
Câu ca dao (hay
lời thi sĩ BBL) có lẽ
không đề cập đến những ý tình lãng đãng xa xôi như thế nhưng cái văn ảnh lung
linh kia, ta làm sao bỏ qua. Nó biến thành hình tượng của tư duy mà người bình
dân lúc thốt lên như đã được dấy lên từ đáy thẳm tâm tư, từ những chất liệu tâm
linh tích lũy trong hồn dân tộc ; nó là mầm sống, là tính thể tồn sinh ẩn
tàng nơi mỗi con nguời yêu nước, thương dân.
Người bình dân ta xưa chưa hề biết
đến’tu từ học’ (trường hợp hai câu nầy không phải của nhà
thơ Bàng Bá Lân) nhưng
như đã sử dụng rồi, sử dụng một cách không ngờ, không ý thúc. Cái gì xui nên
thế ? Phải chăng do một ‘tiếng lòng’ nao nức bên trong. Cái ‘tiếng lòng’
đó đâu riêng chỉ có tình cảm mà nhất định còn là những thao thức, nghĩ suy
không hay chưa hiện ra thành nếp nghĩ. Ðấy là những cảm nhận bất chợt phát sinh
từ ‘nó’ vì ‘nó’ chính là cái tâm thức tiềm tàng nội sinh của tâm hồn dân tộc
nơi họ -người bình dân ta xưa- thể hiện ra theo hướng nầy, nẻo nọ rất đơn sơ,
rất thông thường, bình dị nhưng qua cái bình dị đó, ta nhìn ra cái gì lãng đãng
mập mờ, lung linh bên trong, đằng sau, phía trước. Cảm ơn lời ca dao ; cảm
ơn nhà thơ Bàng Bá Lân, nhà thơ mộc mạc luôn cận kề với xóm làng, thôn ổ, với
đại chúng bình dân hồn nhiên, chất phác, luôn thể hiện tâm hồn VN qua lời thơ
thiết tha, bình dị như lời ca dao.
Nguyễn Thuỳ

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét