Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Quê Hương Nơi Nào - Thanh Vân


Ngày rời Quê Hương, tôi mười chín tuổi. Ngày đó, trong trí óc còn non nớt của tôi, Quê Hương là những nơi tôi đã đi qua, đã sống, đã yêu mến. Quê Hương của tôi ngày đó là Huế, nơi tôi được sinh ra, đã lớn lên, đã có những kỷ niệm thật êm đẹp với giòng sông Hương chảy qua nhà ông nội tôi, với ông tôi và chòm râu bạc phơ, mái tóc lưa thưa trắng xóa và đôi mắt đầy yêu thương. Quê Hương của tôi ngày đó cũng là Dalat với ngôi trường của các bà Mẹ người Pháp nằm trên đồi núi Lang Biang đầy thông và hoa dại, ngôi trường trồng hoa capucine đủ màu rực rỡ, những cây mimosa lá bạc hoa vàng nụ nhỏ như lòng đỏ trứng gà. 

Quê Hương của tôi ngày đó cũng là Saigon nhộn nhịp với những chiếc cyclo xinh xắn thấp vừa đủ cho chúng tôi vén nhẹ tà áo dài bước lên, người phu cyclo thong thả đạp xe đưa tôi đến trường Đại Học, đi dạo phố phường, đi thăm bạn bè vào những ngày nắng hanh vàng lộng lẫy trải đẩy lên thành phố thân yêu. 
Tôi bước chân lên phi cơ rời xa Saigon mà lòng thổn thức nhớ con đường Tự Do đầy lá me bay vào những buổi chiều tan học, đi lên nhà sách Portail tìm một vài cuốn sách vừa mới được gởi từ ngoại quốc về, mà thương con đường Cường Để gió lộng từ bờ sông thổi lên. Biết bao nhiêu nhớ thương dâng đầy trong trái tim còn non dại lần đầu tiên rời xa chốn thân yêu để đi đến một phương trời xa lạ. 
Những ngày đầu trong cuộc đời sinh viên du học, ban ngày bận bịu với những thay đổi mới trong cuộc sống xa nhà tôi quên đi được phần nào những nhớ nhung, ray rứt về một Quê Hương đã xa nhưng vẫn còn một ngày về khi công thành danh toại, nhưng đêm về khi chỉ còn một mình trong căn phòng vắng, tôi lại cảm thấy thật bơ vơ. Quê Hương trở về với đầy đủ hình ảnh thân yêu, quen thuộc. Tôi nhớ, tôi thương, thương giòng sông Hương của tuổi nhỏ thơ ngây, tôi thèm đi lại trên con đường Nguyễn Huệ êm đềm lịch sự với tiệm kem Pôle Nord ở ngay đầu đường, với những kiosques bán hoa đủ màu sắc, hoa hồng cho những kẻ yêu nhau, hoa glayeul để chưng trong nhà và đầy đủ quà tặng của một thành phố văn minh. Ngày đó, Saigon được thế giới mệnh danh là "Hòn Ngọc Viễn Đông" thật không có gì quá đáng.
Tôi nhận được tin Saigon đổi chủ, Saigon mất tên vào một buổi sáng mùa Xuân giá rét trên đất người. Gia đình tôi đã di tản được và đang cố sức làm lại cuộc đời trên miền đất lạ. Nghe tin dữ, lòng tôi tan nát. Nước mắt cứ chảy dài không ngưng được. Tôi bỗng thấy nhớ xót xa Quê Hương yêu dấu, nhớ Huế của tuổi thơ, nhớ Dalat của những ngày tháng học sinh vô tư, yêu đời, nhớ Saigon với chuỗi ngày vui của tuổi dậy thì. Và bao nhiêu hình ảnh thân yêu hiện về của một Quê Hương mà tất cả mọi người quanh tôi ngày đó nói rằng sẽ không bao giờ được gặp lại.
Rồi ngày tháng trôi qua, tin dữ từ quê nhà bay đi khắp nơi, tin ông tôi đã chết vì đói, tin những người thân bị kẹt lại chết trên đường vượt biên, tin hải tặc hãm hiếp dân tôi, những tin đau lòng một ngày một nhiều và cho tôi có cảm nghĩ rằng tôi không còn Quê Hương, Việt Nam thân yêu của tôi đã biến khỏi trên trái đất này. Cái tên Hà nội đối với tôi thật xa lạ, thành phố Hồ chí Minh không quan hệ gì đến thành phố Saigon thân yêu của tôi ngày xưa cũ. 
Thời gian trôi nhanh, mười năm, hai mươi năm.... giờ đây tôi đã trưởng thành, đã hội nhập được trên đất nước người, đã thành công dân của một xứ sở hùng mạnh nhất thế giới, đã có công ăn việc làm vững chắc... Một thế hệ Việt Nam khác cũng đã lớn mạnh trên khắp những đất nước Tự Do. Nhưng sao tôi không thể nào tìm thấy được những tình cảm thiêng liêng, tha thiết mà ngày xưa tôi đã cảm nhận được với Saigon, Huế, Dalat mà theo tôi, ngày đó là Quê Hương của tôi. Tôi vẫn thấy mình lạc lõng, thiếu thốn một cái gì. 
Báo chí nói nhiều về một đất nước Việt Nam thống nhất có Hà nội, Hải Phòng và những tỉnh miền Bắc xa lạ tôi chưa từng nghe đến ngày tôi còn ở trong nước. Nhiều người đã về thăm lại Việt Nam, nhiều sinh viên từ Việt Nam xa lạ đó cũng đã qua du học bên Mỹ... Tôi tìm tòi trong sách báo những thay đổi đang đến trên Quê Hương ngày cũ và chợt cảm thấy muốn trở về tìm lại những cảm giác thân yêu, những hình ảnh đã từng ghi sâu vào trí óc của tôi. 
Quê Hương của tôi nơi nào, là xứ Mỹ hùng mạnh với đời sống tất bật, thiếu tình cảm chân thành hay là nước Việt Nam xa xôi kia, nước Việt Nam với đời sống hiền hòa êm ả ngày thơ ấu, bây giờ có thêm Hà Nội, Hải Phòng và những tỉnh miền Bắc xa lạ, Việt Nam ngày nay có còn là Quê Hương trong tim tôi hay không? Tôi muốn chấm dứt những đêm dài thao thức nhớ thương, tôi muốn tìm lại cho con tim đầy kỷ niệm mơ hồ của tuổi nhỏ hình ảnh một Quê Hương mà tôi hằng mơ ước. Tôi muốn tìm cho hồn tôi một nơi chốn để trở về, để cho những giấc mơ sẽ trở thành sự thực.
Một ngày mùa Thu, tôi đi về lại Việt Nam trên chuyến bay đêm của hãng Hàng Không China Airlines. Hơn mười ba tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay, tôi nhớ lại từng góc phố, từng con đường, từng cửa tiệm của Quê Hương tôi ngày xưa, tôi bồi hồi sung sướng khi nghĩ rằng, những hình ảnh tưởng rằng đã trở thành kỷ niệm, tôi lại sắp sửa được nhìn lại, được sờ mó, được thưởng thức, cái cảm giác thiếu thốn, mất mát trong tôi sẽ không còn nữa vì tôi sắp bước chân xuống lại Quê Hương của tôi ngày cũ. Máy bay dừng ở Đài Bắc, chúng tôi chuyển qua phi cơ của hãng hàng không Việt Nam để về Saigon. Tôi hơi ngỡ ngàng, thất vọng chút ít khi trông thấy những tiếp đãi viên hàng không. Họ có vẻ là lạ. Những ngưỡi nữ tiếp viên không có cái vẻ thanh lịch của những cô tiếp viên ngày xưa, họ mặc áo dài màu hồng quê quê, dáng dấp họ thô kệch vụng về. Nhưng rồi tôi nghĩ, Quê Hương tôi chắc không có gì thay đổi, các cô gái này chỉ là những nhân vật mới, không hợp với óc thẩm mỹ của tôi mà thôị
Khi máy bay gần đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, chợt có tiếng nói của cô chiêu đãi viên mời hành khách nghe những bản nhạc của Quê Hương Việt Nam. Giọng nói của cô không Bắc, không Nam mà lơ lớ, nặng nề của những người sống ở miền quê, miền núi mà tôi đã được nghe đâu đó từ những người Việt Nam vượt biên qua Mỹ từ miền Bắc. Nhưng việc làm cho tôi hụt hẫng nhất là khi nghe những bài ca từ máy phóng thanh của phi cơ phát ra. Những bài ca vinh danh một tên đồ tể đã làm cho chúng tôi phải bỏ nước ra đi, làm cho bao gia đình tan nát... Tôi cảm thấy khó chịu và có phần nào hối hận đã trở về... Tim tôi tự nhủ thầm "Chắc Quê Hương đã đổi khác rồi" nhưng vẫn còn chút hy vọng mong manh sẽ tìm lại được những kỷ niệm, những rung cảm của thời thơ ấu khi đặt chân xuống vùng đất nước của tuổi thơ. 
Hơn một tiếng đồng hồ rồi cũng qua, tiếng cô chiêu đãi viên lại nhắc nhở hành khách buộc dây an toàn vì phi cơ sắp đáp xuống phi đạo. Trên máy bay, khuôn mặt của hành khách đã có vẻ căng thẳng chứ không còn đùa giỡn như khi mới lên tàu nhìn những cô chiêu đãi viên đem cơm đi phát cho khách, những hộp cơm được bọc giấy sạch sẽ nhưng đựng cơm vớí thịt mỡ kho và dưa cải chua cùng một chai nước suối hay một ly rượu "bông lúa" và một hộp trái cây gồm một miếng thơm gọt sẵn, một miếng dưa hấu, một miếng đu đủ. Cơm này ở vùng Little Saigon California bán đầy, dưa muối xanh và ngon hơn, thịt không có mỡ vì dân Việt ở ngoại quốc dư thừa calorie quá rồi, còn trái cây vùng nhiệt đới, Pháp, Mỹ, Úc chi cũng không thiếu. Tội nghiêp Việt Cộng cứ tưởng dân ta về thăm Quê Hương nườm nượp vì nhớ "cơm dân tộc" (chữ mà tôi luôn luôn nghe trên cửa miệng của những người thân quen khi tôi đến thăm họ dù là ỏ Saigon, Huế hay Dalat).
Rồi thì máy bay cũng đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Vì xa nhà đã quá lâu nên tôi cũng không nhớ rõ ngày xưa Tân Sơn Nhất ra sao, chỉ biết rằng ngày còn nhỏ, phi trường Tân Sơn Nhất tượng trưng cho sự thanh lịch, giàu có. Người giàu mới đi du lịch bằng máy bay. Kỷ niệm của tôi chỉ là sân bay ngày đó thật rộn ràng người đi kẻ đón, họ ăn mặc lịch sự, nơi nào cũng sạch sẽ, các cô chiêu đãi viên Hàng Không dáng dấp thanh tao, kiêu kỳ với những tà áo xanh thêu con rồng thật đẹp, những ông phi công dân sự mặc đồng phục màu đen với hai cầu vai đầy những vạch màu vàng tượng trưng cho cấp bậc của họ.
Cửa phi cơ mở ra, các cô chiêu đãi cũng đứng chào hành khách ở đầu cầu thang. Tân Sơn Nhất giờ có vẻ văn minh hơn một chút vì hành khách đi từ máy bay thẳng đến nơi làm thủ tục quan thuế và nhập nội. Phi trường vẫn đông đúc như ngày xưa nhưng thành phần dân chúng có vẻ hỗn tạp hơn, khu vực nhập nội toàn người ngoại quốc hoặc Việt kiều, có một vài người có vẻ là nhân viên của chính phủ đi công tác trở về. 
Mới nhìn thì Việt Nam ngày nay có vẻ "lương thiện" lắm! Khắp nơi trong phi trường đều dược dán những băng dài màu đỏ kẻ chữ màu đen yêu cầu hành khách không được để tiền trong hộ chiế. Lời yêu cầu này được viết bằng ba thứ tiếng Pháp, Mỹ, Việt Nam. Những du khách ngoại quốc tay cầm passport thản nhiên đến đưa giấy tờ cho nhân viên phi trường khám xét, những Việt kiều đã để sẳn tiền trong passport từ khi máy bay chưa hạ cánh nhưng khuôn mặt vẫn đượm sự lo lắng (Có lẽ họ sợ số tiền cặp chung với vé máy bay không đủ tiêu chuẩn hay chăng). Các nhân viên phi trường ngồi sau cái bàn có tường bằng giấy cứng bao quanh nên khi họ mở  passport ra xét không ai thấy được trong đó có gì. Nhìn kỹ lắm thì thấy họ lùa nhanh tiền xuống hộc bàn xong làm bộ xem xét hộ chiếu. Một vài người đưa ít tiền bị hỏi gắt gao vài câu xong qua bàn khác làm việc (chắc để đưa thêm tiền). Trung bình một người bình thường cặp năm đô la vào vé máy bay thì thoát, nhiều người nghĩ mình không có gì phải lo chỉ để tượng trưng hai đô la là có chuyện ngay, tiền đóng thêm nhiều khi còn hơn những hành khách biết điều trước họ. 
Xong màn xét hộ chiếu lại đến màn Hải Quan. Cửa ải này thì khó đoán giá tiền lắm, ai khôn ngoan cứ đếm hành lý của mình xong nhân lên với năm (mỗi valise năm đô la), người nào có đem món gì quốc cấm thì đưa nhiều nhiều là tự do thong thả ra lãnh hành lý. Hành lý của tôi gồm hai valises và một xách tay nhỏ, tôi bỏ mười đô la vào trong passport, nhân viên hải quan không thèm nhìn mặt ký toẹt cho đi ngay. Tôi chạy vội theo một nữ hành khách người Pháp hỏi họ đóng bao nhiêu tiền, người này ngạc nhiên hỏi lại tiền gì, tôi nói tiền nhập nội, tiền lấy hành lý, bà này tỏ vẻ ngạc nhiên nói bà không đóng xu nào cả. A Ha! Vậy là Đảng ta chỉ bắt nạt Việt kiều, đối với người ngoại quốc, Đảng thanh liêm lắm lắm.
Lấy xong hành lý, tôi chất lên một chiếc xe đẩy (giá một đô la) và đi ra cửa phi trường. Tôi về thăm Việt Nam không nói với người nào nên không có ai tới đón. Những người khác đã có thân nhân chờ sẵn với xe van đi thuê cùng tài xế. Tôi lựa một người tài xế taxi có vẻ mặt lương thiện và nói đưa tôi về khách sạn Palace (theo lời dặn của hãng bán vé du lịch ở Mỹ) trên đường Nguyễn Huệ. Xe rời phi trường Tân sơn Nhất, ra đường Cách Mạng ngày xưa (tôi không biết bây giờ Việt Cộng đặt tên gì). Tôi không tài nào nhìn ra được con đường quen thuộc này nữa. Hai bên đường nhà cửa xây lấn lên lề, người qua lại đông không thể tưởng. Họ đi lại vô trật tự bất chấp đèn xanh đèn đỏ hoặc còi xe hơi. Bộ Tổng Tham Mưu ngày trước được thu nhỏ lại vì bị nhà cửa tư nhân lấn chỗ, trước cửa nhà nào, dù sang trọng hay nghèo nàn xập xệ cũng có một cái quán nhỏ bán thức ăn bình dân hoặc hàng xén. 
Mới gần buổi trưa mà dân Saigon đã "nhậu", họ ngồi ăn trứng vịt lộn, bún, cơm trong bụi mờ của những xe qua lại. Tôi không làm sao nhận ra được con đường Cách Mạng rộng rãi lịch sự ngày xưa. Bây giờ nó xô bồ, chật hẹp như những con đường nhỏ ở chợ Bàn Cờ ngày trước. Xe Honda, xe đạp, xe cyclo dành nhau chạy không đếm xiã gì đến luật lưu thông (vậy mà khi ở Mỹ tôi vẫn cho rằng Tijuana ở Mễ à nơi có xe chạy ẩu nhất). Những chiếc cyclo đạp xinh xắn ngày nào giờ cao lêu nghêu, trông thật dị hình, ngồi trên xe đó tôi nghĩ có thể té xuống đất không biết khi nào. 
Qua khỏi cầu Mac Mahon (cũng không biết bây giờ tên gì) xe chạy nhanh trên đường Công Lý. Trời, đường Công Lý (giờ tên Nam Kỳ Khởi Nghĩa, tôi biết được nhờ hai câu thơ đọc được trên báo khi còn ở Mỹ "Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do"), con đường ngày xưa tôi vẫn đi lại hàng ngày vì nhà tôi nằm trên con đường đó, giờ sao lạ lùng, tồi tàn và đông người quá vậy. Nhà cửa xây lấn hết bờ hè, những căn nhà sang trọng ngày xưa giờ trở thành những tiệm ăn bình dân hoăc chia nhỏ ra thành những cửa tiệm sửa xe đạp, xe Honda, vài ngôi chợ nhỏ họp trước cửa nhà, chùa Vĩnh Nghiêm đuợc sơn lại sặc sỡ, chẳng có vẻ gì tôn nghiêm. 
Tôi đi ngang khu cư xá cũ ngày xưa có nhà của tôi và thấy lòng mình buốt nhói. Dãy cư xá kiến thiết ba từng lầu ngày nào sang trọng thế giờ biến thành một khu buôn bán hỗn tạp. Tôi nhớ căn đầu tiên là nhà Tướng Nguyễn Đức Thắng giờ thành một tiệm sửa xe và bán phụ tùng xe đạp, xe gắn máy, căn của ông trung tá cảnh sát Nguyễn mộng Hùng tự Hùng xùi cũng trở thành một cửa tiệm tạp hóa. Hai căn này nằm ngay mặt đường nên khi xe taxi chạy qua tôi mới trông thấy rõ ràng. 
Nhà của tôi nằm phía trong nên tôi không nhìn thấy chỉ biết rằng cái cư xá đó không còn là dãy nhà thân yêu, êm đềm của ngày tôi còn ở Việt Nam nữa mà đã biến thành một khu buôn bán bình dân, những thảm cỏ chia cách những dãy nhà đã được bỏ đi thay vào đó là những căn nhà với hình dáng dị hợm. Tôi thấy mình như muốn ngất đi vì thất vọng và buồn tủi. Trước khi lên máy bay đi về Việt Nam, tôi nhủ thầm, dù không tìm lại được Quê Hương ít ra tôi cũng sẻ thấy lại căn nhà cũ của thời con gái... Vậy mà giờ đây, mới ra khỏi phi cơ chừng một tiếng đồng hồ tôi đã thấy thất vọng tột cùng, lòng chỉ muốn trở lại Mỹ ngay để khỏi chứng kiến thêm những thay đổi ê chề. 
Xe chạy qua khỏi ngả tư Công Lý và Yên Đổ để đi về trung tâm thành phố. Ngang trường Regina Mundi (Couvent des Oiseaux) cũ, tôi phải nhờ tài xế chạy chậm lại mới tìm ra ngôi trường thân yêu. Regina Mundi giờ bị chia đôi, một nửa thành trường Võ Thị Sáu, chỉ còn một phần thật nhỏ có gắn bảng Regina Mundi, không để ý không tài nào trông thấy. Rồi xe chạy qua trường Marie Curie, trường thật đổi khác nhưng cái tên bằng đồng vẫn được gắn ngoài cửa… Xe tiếp tục chạy về hướng thành phố, con đường Công Lý ngày xưa êm đềm lịch lãm giờ thật xô bồ, hai bên đường là những quán nhậu, quán bán áo quần, nhà cửa mạnh ai nấy sửa, không còn vẻ sang trọng của một con đường chính chạy ngang qua khu nhà ở (quartier résidentiel), buôn bán, tôi có cảm tưởng cả nước thành một cái chợ. Nhưng như vậy tìm đâu ra người mua đây? Vừa mệt mỏi vừa chán nản, tôi nhắm mắt lại, lòng thật buồn.
Xe đến đường Nguyễn Huệ, tôi mở mắt ra bàng hoàng, run rẫy. Con đường Nguyễn Huệ thơ mộng với những kiosques bán hoa và những chiếc xe lộng lẫy màu sắc để cho thuê trong ngày đám cưới xưa kia giờ cũng như trăm ngàn con đường nhỏ trong Chợ Lớn. Kiosques hoa bị dẹp đi từ hồi nào thế vào đó lại là cũng những quán nhậu hột vịt lộn, cơm dĩa, xe bánh mì. Người qua lại đông đảo, xe gắn máy, xe đạp, xe taxi chen nhau trên đường, không luật lệ, không nhường nhịn. Họa hoằn mới có một xe hơi tư nhân, chẳng bù ngày xưa Nguyễn Huệ thật sang trọng với những chiếc xe nhà lộng lẫy dừng bên kiosque mua hoa. Taxi đưa tôi đến khách sạn Palace cũ bây giờ có tên là Hữu Nghị. Khách sạn này nằm ở cuối đường Nguyễn Huệ gần bến Bạch Đằng đối diện với Tòa án ngày xưa. Giá một đêm là 40 dollars, có ăn sáng theo kiểu buffet với đầy đủ món ăn Việt, Tây, Tàu khá rẻ nếu so sánh với giá khách sạn tương đương như vậy ở Mỹ hay ở Âu Châu. Khách sạn có nước nóng, máy điều hòa không khí, có bảo vệ mở cửa cho khách ở chân thang máy... Nghĩa là Việt Cộng cố gắng mời gọi du khách để moi ngoại tệ nên sự phục vụ khá chu đáo. Người nghèo ráng nằm gầm cầu, viã hè, có tiền thì được cung cấp đủ thứ tiện nghi.
Tối hôm đó, sau khi tạm yên trí cho cái ở, tôi đi xuống nhà hàng ăn của khách sạn kêu một bát hoành thánh, tôi vẫn thèm món đó từ hồi còn bé. Nhưng hoành thánh ở một khách sạn năm sao bây giờ sao chẳng có gì ngon lành, cái bát thì đẹp thật nhưng hoành thánh lạt lẽo váng đầy mỡ, bánh thì mềm nhũn... Tôi nhớ ngày xưa, buổi chiều đi học về chỉ chờ nghe tiếng xực tắc vang lên đầu ngõ là biết ngay mình sẽ có một tô hoành thánh thơm ngon, có lá xà lách và con tôm chiên nằm ở trên... Món quà bình dân rẻ tiền mà ngày hôm nay không làm sao tìm lại được. Tôi trở lên phòng uống một viên an thần để cho giấc ngủ đến thật nhanh, mặc dù mệt mỏi, tôi cũng cảm thấy không thể nào ngủ được yên giấc trong ngày đầu tiên về thăm lại Quê Hương. Tôi tự hứa với lòng, ngày mai, sau giấc ngủ, tôi sẽ đi thăm lại thành phố thân yêu, tìm thưởng thức lại những món ăn ngày xưa của thời con đường Catinat còn tên Tự Do chứ không phải Đồng Khởi như bây giờ.
Sáng hôm sau tôi bỏ ăn sáng ở khách sạn, hí hửng đi tìm hẻm Casino của thời sinh viên. Ôi cái hẻm Casino đầy món ăn Bắc bình dân mà sinh viên, công chức ai ai cũng biết, cũng thương yêu nên khi nào cũng tấp nập. Tôi nhớ bún chả Casino, bánh cuốn Casino và một ngàn món ăn bình dân khác đã làm cho con hẻm nhỏ trên đường Pasteur ngày xưa thành một nơi hò hẹn của cả thủ đô Saigon ngày chưa bị tụi cán ngố từ trong rừng về xâm chiếm. Saigon buổi sáng mùa Thu có nắng vàng và gió nhè nhẹ từ sông đưa lên. 
Tháng Chín thương xá Tax không hoạt động vì đang được xây cất lại nhưng đường Nguyễn Huệ có thêm nhiều cao ốc thật cao cho các công ty ngoại quốc thuê làm văn phòng, có khách sạn Kim Đô sang trọng nhưng trước mặt Tòa Đô Chánh kế rạp Rex tụi Việt Cộng vừa cho dựng lên tượng già Hồ trông thật xốn xang. 
Đi dọc theo đường Lê Lợi cũ về hướng Pasteur để đến hẻm Casino, tôi thấy đường Lê Lợi giờ thật khác xưa, tiệm kem Pôle Nord bị dẹp, thay vào đó là một  cao ốc ba tầng, tầng giữa buôn bán, phần nhiều là áo quần may sẵn dành cho du khách, tầng dưới hết là một nhà Bưu điện, có máy lạnh, các cô thư ký mặc áo dài đồng phục lăng xăng với các máy vi tính... 
Đến góc Pasteur, Lê Lợi nơi ngày xưa có nước mía Viễn Đông nổi tiếng và những xe bò viên, bò khô, món ăn khoái khẩu của sinh viên học sinh sau giờ tan học, giờ chỉ còn độc nhất một xe nước mía không tên, tôi băng qua đường để tìm đến hẻm Casino thân yêu... Nhưng rồi tìm hoài, tìm mãi... con hẻm đã biến mất, thay vào đó là những tiệm buôn, tiệm dịch vụ, tiệm cà phê Trung Nguyên. Saigon có thật nhiều quán cà phê Trung Nguyên, chỉ chuyên bán cà phê, khi nào cũng đông khách. Mua gói xôi, ổ bánh mì vào kêu một ly cà phê là đã có một buổi ăn sáng. 
Cà phê Saigon bây giờ được pha đậm sánh, đậm không thua gì những tách cà phê trong những quán ăn ở Quartier Latin của Pháp. Quán cà phê Cái Chùa (Pagode) ở góc đường Tự Do xưa đã bị dẹp nên người ghiền cà phê vào những quán cà phê Trung Nguyên. Không hiểu các quán này có phải của Quốc doanh hay không mà đường phố nào cũng có những quán cà phê Trung Nguyên! Tôi lại lạc đề, đang đi tìm hẻm Casino để ăn sáng, hẻm đã biến mất từ hồi nào, tôi ngậm ngùi đi về hướng chợ Bến Thành tìm đến quán Bà Ba Bủng ở đường Thủ Khoa Huân vậy. 
Nhưng rồi tôi lại bị thêm một phen hụt hẩng nữa... Tiệm đây rồi nhưng giờ cũng là một tiệm tạp hóa, bà Ba Bủng đã vượt biên hay đi đoàn tụ rồi hay sao mà quán xưa nổi tiếng bún riêu bún ốc... giờ chỉ còn bán bánh mứt, xà bông, bột mì và những thứ linh tinh khác (ôi mới về Việt Nam có hơn một ngày tôi đã học được hai chử "linh tinh" của mấy bà bán hàng, mấy cô bồi phòng gốc Bắc mới vào Nam sau 75). Đã gần trưa mà chưa có chi vào bụng, tôi nhớ lại trong chợ Bến Thành ngày xưa có bà bán bún bò Huế thật ngon nên vội vào chợ ăn tạm vậy. 
Chợ Bến Thành cũng đổi khác, có thể sạch sẽ hơn xưa để câu khách ngoại quốc nhưng đối với tôi thật xa lạ... Khu hàng ăn ở Cửa Bắc sạch sẽ, ngăn nắp... nhưng tô bún như có mùi quốc doanh, không thể nào tìm lại được chút hương vị nồng nàn của tô bún Huế ngày xưa... Buổi trưa mùa Thu ở Saigon nhưng thời tiết nóng bức như sắp mưa vậy mà lòng tôi thật lạnh, có cái gì mất mát, có cái gì buồn tủi làm mắt tôi như muốn nhòa lệ... Saigon của tôi... Quê Hương của tôi... tôi đang hiện diện ở đó mà sao cảm thấy thật xa cách muôn trùng. 
Ăn không hết tô bún tôi đã đứng dậy trả tiền, có cái gì nghẹn ngào làm tôi không thể nào ăn tiếp. Ra đường đúng lúc dân chúng đi làm về buổi trưa. Đường xe là xe... nhưng cái hụt hẫng nữa là người phụ nữ Saigon ngày hôm nay như có gì xa lạ... Không có một tà áo dài nào để cho buổi trưa Saigon bớt nóng, chỉ toàn quần tây áo sơ mi hay đồ bộ, ngồi xe Honda hay xe đạp thì bà nào cô nào cũng đội nón rơm, nón tai bèo, mặt che kín chỉ chừa có đôi mắt, mặc áo dài tay hay ngắn tay cũng choàng thêm đôi găng cao lên tận nách. Tôi bùi ngùi nhớ lại người phụ nữ thời Saigon chưa mất vào tay cộng sản, phụ nữ ra đường thường mặc áo dài, tóc để cho bay bay và đi xe gắn máy có mang găng thật nhưng đó là những đôi găng trắng chỉ cao đến cườm tay làm cho họ có dáng dấp thật nhẹ nhàng, quý phái... Ngày hôm nay người nào cũng nón tai bèo, cũng khăn bịt mặt, cũng găng tay cao... không quen mắt dám nhận lầm người. 
Kêu cyclo đi thăm thành phố tôi còn buồn hơn. Các nữ sinh vẫn mặc áo dài trắng thật nhưng... Saigon cộng sản là Saigon của nón tai bèo, em nào cũng đội nón tai bèo, cũng che mặt, cũng găng tay cao... "Em tan trường về, anh dám theo lầm người, trao lầm thơ lắm em ơi!" Đúng là nón tai bèo che khuất nẻo tương lai... tương lai của những em gái Việt Nam ngày hôm nay sao xa vời quá, tham nhũng đang hoàng hành trên khắp các miền đất nước, tương lai của các em, dù học giỏi đến đâu nhưng không có tiền hối lộ cũng sẽ chỉ là công nhân viên cho những xí nghiệp ngoại quốc mà thôi! Những cô gái thật trẻ cam tâm kết hôn với những Việt kiều già hơn bố mình phải chăng vì chỉ muốn thoát khỏi nón tai bèo để tìm cho mình một tương lai tươi sáng hơn?
Mới một buổi sáng đi dạo lại Saigon tôi đã cảm thấy lạc lõng bơ vơ. Quê Hương tôi đó hay sao? Tôi chẳng tìm lại được chút kỷ niệm nào, chút rung cảm nàọ Hành lang Eden ngày xưa thật trang nhã với rạp ciné, với các cửa hàng mỹ phẩm, với nhà may Maison Rouge... giờ tối thui dành cho các gánh bán hàng rong, chổ giữ xe cho phòng trà Tiếng Tơ Đồng, lạc chân vào đó chỉ sợ bị giật ví vì những người vô gia cư, ghiền xì ke nằm ngồi la liệt khắp nơi...
Ôi Saigon của tôi đó hay sao? Hơn hai mươi năm xa Quê Hương, mới về có một ngày tôi đã muốn lên máy bay bỏ đi lại ngay. Saigon của lá me bay, của "cây dài bóng mát", của những buổi chiều cùng người yêu "uống ly chanh đường"  để "thấy môi ai ngọt" giờ lạc ở chốn nào, hay chỉ là giấc mơ thôi... Tôi muốn ấp ủ mãi giấc mơ đó nên không muốn nhìn Saigon thêm nữa. Tôi không hiểu những Elvis Phương, Tuấn Vũ, Hương Lan muốn tìm gì mà trở về Saigon năn nỉ tụi Việt Cộng cho hát lại, cho hồi tịch?... về Việt nam chắc có lý do nhưng dù sao, đi nghe hát, nhìn một Lan Ngọc của thời Cộng Hòa, tuy vẫn còn đẹp, hát vẫn còn hay mà thật nghèo và lạc lõng trên sân khấu giữa những ca sĩ trẻ mới lên mà thật ngậm ngùi thương cho đời ca hát cho người  mua vui... Các ca sĩ già hết xuân, hết thời ở Mỹ về tìm được gì trên đất nước nghèo đói, bạc bẽo này?
"Em ra đi nơi này vẫn thế !" Không, không, ngàn lần không, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tự lừa dối mình, lừa dối bạn bè và đã mang giấc mơ Saigon vẫn như xưa đi vào lòng đất! Saigon không còn như xưa, đất nước thống nhất thật nhưng Quê Hương đã đổi khác, không làm sao tìm lại được Quê Hương ngày xưa cũ ở xứ Việt Nam cộng sản ngày hôm nay.
Tôi như kẻ mộng du 
Tôi như là rạn vỡ  
Giữa Saigon tôi ngỡ  
Mình chỉ là người dưng.
Tôi trở về để tìm lại một Quê Hương của tuổi thơ, của tuổi dậy thì nhưng rồi tôi vẫn thấy mình lạc lõng giữa những người cùng huyết thống... Nước Mỹ đã cho tôi sự Tự Do, cho tôi những giấc ngủ êm đềm, cho tôi có thì giờ mơ mộng, cho tôi mái ấm gia đình... Thôi thì đành xin nhận tạm nơi này làm Quê Hương. Tim tôi vẫn ấp ủ hình ảnh thương yêu của Huế, của Saigon, Đà Lạt... những hình ảnh đó sẽ theo tôi mãi mãi để cho tôi nghĩ rằng ngoài nước Mỹ ra, tôi vẫn là một người có một Quê Hương êm đềm, đẹp đẻ như những kỷ niệm của tuổi ấu thơ. 
Quê Hương ơi, gọi thầm trong giấc ngủ 
Cho đau thương vơi bớt, nhẹ tâm hồn 
Việt Nam ơi, lời gọi mời quyến rũ 
Một ngày về cho đúng dạ sắt son.
Ôi tôi đã trở về và không tìm lại được Quê Hương! Quê Hương nơi nào? Lòng tôi vẫn sắt son chờ đợi. Tôi sẽ chờ ngày Huế, Sài Gòn, Hà Nội rực rỡ bừng sáng trở lại giữa rừng cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu... Ngày đó, tôi sẽ hạnh phúc hét lớn lên rằng "Việt Nam là Quê Hương yêu dấu!" Tôi sẽ lại trở về sống mãi trên Quê Hương!
  • Thanh Vân. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét