Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

LỬA ĐÃ NỔI LÊN RỒI -Thời Dả man - Mặt Trận Đã Lộ Ra - Hồ Tấn Vinh

Tuần rồi, nhà văn Phạm Đình Trọng lấy cả tâm huyết viết bài THỜI NGỤC TÙ. Ông tố cáo chế độ CS đã biến đất nước thành một nhà tù. Có những nhà tù nhỏ nhốt nhiều người trong mấy thước vuông. Có cả cái nhà tù lớn mà người dân bước ra khỏi nhà lại phải bị năm ba công an theo dõi, chận hỏi muốn đi đâu, muốn làm cái gì?

Ôi, trong nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam, việc bắt dân, tống người dân lương thiện vào ngục tù quá đơn giản, dễ dàng và mạng người dân quá rẻ mạt!
3. Suốt mấy chục năm cầm quyền, nhà nước cộng sản Việt Nam đã bắt bớ, tù đày, giết hại hàng triệu người Việt Nam lương thiện. Sẽ có những nhà nghiên cứu, những nhà làm sử chân chính tập hợp tư liệu, thống kê đầy đủ để có con số chính xác số người dân lương thiện bị nhà nước chuyên chính vô sản Việt Nam tù đày, giết hại. Con số dòng dòng máu đó sẽ đi vào lịch sử là bằng chứng về một thời ngục tù đau đớn nhất của dân tộc Việt Nam và lịch sử sẽ phán xét cái thể chế khẳng định sự có mặt, duy trì sự tồn tại bằng lạnh lùng, mê mải, bền bỉ giam cầm thân xác, giam cầm trí tuệ, giam cầm tư tưởng người dân và say máu dân lành.

Từ ngữ ‘ngục tù’ hàm chỉ sự nhốt người, hạn chế sự đi lại. Chế độ ngục tù như thế tưởng là kinh khiếp lắm rồi, nhưng THỜI NGỤC TÙ đã tổng kết nhưng chưa nói đến chi tiết những gì xẩy ra trong chốn lao lý ấy.

Bức thư trần tình của TS Nguyễn Thanh Giang mục đích sơ khởi kêu gọi giúp đỡ, lại phơi bày một trường hợp cụ thể những gì xảy ra trong tù đã đưa đất nước từ THỜI NGỤC TÙ đến mức độ THỜI DÃ MAN (cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Việt Cộng – (Minh Tân - Thanh Nghị - Xuân Lâm) định nghĩa  ‘dã man = tàn ác theo lối loài thú. ‘thời đại dã man =  thuộc về một giai đọan phát triển của xã hội loài người thời nguyên thủy, khi đời sống con người vẫn còn những mặt gần với đời sống thú vật, chưa có văn minh).

A. THƯ TRẦN TÌNH

Thưa quý anh chị

Anh chị em dấn thân vì nền dân chủ ở Việt Nam nói chung sống rất khốn khổ về cả tinh thần lẫn vật chất. Riêng tôi, nhờ lương hưu không thấp, các con cũng khá giả nên cũng đỡ. Gặp gỡ, quen biết nhiều anh chị em tôi không chỉ mủi lòng mà rất thương tâm, nhưng cá nhân không biết làm thế nào cho thỏa đáng được.

Thư này tôi xin đơn cử trường hợp cô Phạm Thanh Nghiên.

Cô Nghiên là một chiến sỹ dân chủ dũng cảm, ngoan cường, tài trí. Cô đã dấn thân rất sớm và có nhiều đóng góp rất đáng ngưỡng mộ.

Cô Phạm Thanh Nghiên năm nay gần bốn mươi tuổi, không chồng con, không công ăn việc làm, cha mẹ đều đã mất. Hiện cô đang nằm tại bệnh viện Hải Phòng, người gầy đét, không biết cân nặng có đủ 30kg không. Cô bị suy nhược vì mấy năm tù, nay lại mắc thêm nhiều bệnh trầm trọng.

Mong các vị quan tâm động viên thăm hỏi và cứu trợ thuốc thang.

Mobi của cô Nghiên: 01265991374. Email: tuoidabuonhp@gmail.com

Xin đa tạ

Nguyễn Thanh Giang
6 tháng 2 năm 2015


B. NHỮNG TỘI ĐỒ CHỨC CAO QUYỀN TRỌNG
 
60 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa đã đưa đến nhiều đau khổ cho người dân Việt. Muốn kể ra thì làm sao kể hết được. Tôi chỉ xin lấy ba trường hợp sau đây.

1. Đem phụ nữ giao cho ngoại quốc để lấy tiền mà không màng đến số phận của họ.
2. Để trẻ thơ thiếu ăn thiếu mặc, làm lụng vất vả. Bịnh hoạn thì không có chế độ nhập viện hay thuốc thang. Thì còn nói chi đến việc học hành. Các học bổng của ngoại quốc cho đều đã bị các ‘lão thành cách mạng’ dành cho con em trong  gia đình hết rồi.
3. Và cuối cùng, ngang nhiên tra tấn, đánh người để bức cung. Ngang nhiên hành hạ tù nhân cho đến chết hoặc khi được thả ra rồi thì cũng là thân tàn ma dại.

Tôi có bịa đặt ra cái gì không? Hay đây là những gì mà người dân hằng ngày đều có chứng kiến. Như vậy thì đây đúng rồi là một thời không có nhân tình, THỜI DÃ MAN.

Đâu có thể đổ thừa cho mấy đứa thiên lôi. Người dân đau khổ trong lúc các ông cai trị, các ông Chủ Tịch Nước, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Thủ Tướng Chánh Phủ, trong lúc còn có thể làm gì coi được thì làm liền đi đừng để mang danh muôn năm là tội đồ của dân Việt.  

MẶT TRẬN ĐÃ LỘ RA
HỒ TẤN VINH

Năm 1953, đảng CSVN tiến hành Cải Cách Ruộng Đất bằng đấu tố giai cấp. Đảng giết hại 170 ngàn dân chúng mà cứ đinh ninh là mình làm cách mạng.

Năm 1958, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm gởi Thủ Tướng Trung Quốc công nhận hải phận 12 hải lý từ đất liền Trung Quốc kể cả các đảo ngoài khơi. Nhưng lúc đó không ai biết có thứ văn kiện này.

Ý nghĩa của hai sự kiện trên đây bây giờ lòi ra với mọi người. ‘Cải Cách Ruộng Đất’ thật ra là Hồ Chí Minh thi hành lệnh của Mao Trạch Đông  ‘Giết Người Cướp Của’ một cách qui mô và tàn ác nhứt trong lịch sử loài người. Còn công hàm của Phạm Văn Đồng ký thực chất là thi hành lệnh của Hồ Chí Minh giao biển đảo cho Tàu.

Không thể chửi Hồ Chí Minh là phản quốc. Chỉ có thể tự trách cái ngu của mình là tôn sùng một tên Tàu gián điệp làm ‘Cha Già dân tộc’! Kẻ bán nước thật sự là Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Lê Đức Anh.

Cuối hành trình tìm sự thật là một chua chát vô biên và phản ứng của người dân thật đa dạng.

Hôm nay là đầu năm Ất Mùi cũng là năm phải có cuộc đọ sức, tôi xin trình bày lại những lực lượng dân tộc đang thật sự tranh đấu cho độc lập của Tổ Quốc và tự do cho người dân. Và họ thật sự đang đứng thẳng lưng.

 A . SĨ PHU TRONG QUỐC BIẾN

-  Giáo Sư Trần Phương dõng dạc tuyên bố hai câu xanh dờn "CHÚNG TA TỰ LỪA DỐI CHÚNG TA VÀ CHÚNG TA LỪA DỐI NGƯỜI KHÁC" và

‘CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN LÀ ẢO TƯỞNG!’ (Published on Nov 11, 2013 - YouTube)

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu) là một tấm gương sáng chói của những người bất đồng chánh kiến với chánh phủ. Ông đã kiên cường rồng rã gần 30 năm nay.

. . . toàn bộ lãnh thổ VN đã an bài trong tay Trung Quốc, thì không có cách nào giải quyết cả. Nhưng không phải. Tôi nghĩ rằng vẫn có một cái ẩn số cuối cùng, ẩn số này có thể làm lộn ngược cái bài toán, cái kết quả ấy, là nhân dân. Chỉ có nhân dân mới cứu được nước thôi.( trả lời phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành  ngày 10-5-2014)

61 trí thức ký kiến nghị ngày 28 tháng 7 năm 2014

Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.
Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.

Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị. 

1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa

Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!

DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW VÀ TOÀN THỂ
ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.
2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.
6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.
13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.
15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương cục Miền Nam. 
16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.
18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP Sài Gòn.
21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP Sài Gòn, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP Sài Gòn.
23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân DânTP Sài Gòn.
25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP Sài Gòn, TP Sài Gòn.
27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký‎ Hội Trí thức yêu nước TP Sài Gòn, TP Sài Gòn.
29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP Sài Gòn.
30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư k‎ý của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP Sài Gòn, TP Sài Gòn.
31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP Sài Gòn, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP Sài Gòn, TP Sài Gòn.
32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóngTP Sài Gòn.
33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP Sài Gòn.
37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP Sài Gòn.
38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP Sài Gòn.
40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh NiênTP Sài Gòn.
42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP Sài Gòn.
43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP Sài Gòn.
44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế.
45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.
49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP Sài Gòn.
50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP Sài Gòn.
51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP Sài Gòn.
54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP Sài Gòn.
55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP Sài Gòn.
58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1991, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.

Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang đứng một mình tuyên bố dứt khoát không thể dứt khoát hơn:

Chúng tôi khẩn thiết kiến nghị: “Truất phế ngay Nguyễn Phú Trọng và Phùng Quang Thanh”.

Hà Nội 24 tháng 10 năm 2014
Số nhà 6, ngõ 235, đường Trung Văn
Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Trao đổi với BBC, ông Nguyễn Thanh Giang nói ông từng 'ngộ nhận' về những điều mà Đảng cho là 'công lao' nhân dịp Việt Nam sắp đánh dấu 85 năm ngày thành lập của Đảng Cộng sản.

“Tôi đã có một thời trẻ và cho đến cách đây 10 năm vẫn thấy rằng Đảng Cộng sản Việt Nam có công với đất nước, với dân tộc là đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập,” ông Giang nói.

“Qua một quá trình, tôi nhận ra cuộc kháng chiến chống Mỹ là vô nghĩa. Đáng lẽ không nên xảy ra núi sông xương máu như vậy,” ông nói.

Cho đến cách nay mươi năm, tôi vẫn nghĩ là đánh Pháp đuổi Nhật là công của Đảng trong công cuộc đánh ngoại xâm,” ông nói thêm“Nhưng giờ này tôi cũng nhận ra là vô nghĩa.” (‘NGỘ NHẬN VỀ CÔNG LAO CỦA ĐẢNG’' ngày 1 tháng 2 năm 2015 )

Bấy lâu nay lỗi hẹn, sĩ phu trong nước bây giờ nghĩ rằng phải có thay đổi chế độ thì mới có thể cứu được nước. Chuyển biến tư tưởng và chấp nhận sự dập vùi, sĩ phu Việt Nam đang làm nhiệm vụ vinh quang của mình. Họ thật sự đi vào trận đồ cứu nước.


HỒ TẤN VINH
Melbourne
Ngày 24 tháng 2 năm 2015
(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét