Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2014

Lá Thư Úc Châu - Trang Thơ Nhạc cuối Tuần: 6-12-2014

John Lennon: Imagine
Tiếng hát: John Lennon
Thân hữu click vào đây để xem
Hoặc ở chế độ public, khi click vào chữ Nam Son (cạnh logo chữ Hán màu đỏ nền đen ở góc trái bên dưới video) thì sẽ ra kênh youtube tên NamSonnhưthếnày: 
Ns Tuấn Khanh: Một trong những câu nói nổi tiếng của John Lennon sau bao nhiêu năm vẫn là điều thú vị cho bất kỳ ai suy niệm, được viết lại rằng “Bạn càng trở nên thật, mọi thứ khác càng trở nên không thật”. Có lẽ đúng như vậy, vì sau nhiều năm từ khi John Lennon ra đi, biến cái đêm tối vô danh đó trở thành lịch sử, rất nhiều người lắng nghe âm nhạc của ông và tuyên ngôn của thế hệ đó đã nhanh chóng nhận ra rằng thế giới này vĩnh viễn là một điều bất toàn, và con người luôn phải nổi loạn trong sự thật của chính mình. 23 giờ 15 phút ngày 8.12.1980, Mark David Chapman, một người hâm mộ tâm thần với những suy diễn không thật về tình yêu đã biến sự ra đi của John Lennon thành một điều có thật. Nhưng cũng từ đó, những gì còn để lại của John Lennon cho cuộc đời đã là niềm cảm hứng vô tận của nhiều lãnh vực.<-- --="" m="">
Từ vị trí của một nhạc sĩ hát tình ca, với hàng loạt các bài hát trở thành kinh tình yêu đôi lứa, John Lennon sững sờ nhìn lại mặt đất mình đang sống. Chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, kinh tế suy thoái, tuổi trẻ cùng quẫn… Và rồi John tự biến mình thành một người ca hát cho hoà bình và tự do mơ ước.John Lennon nhắc con người hãy biết sống với tưởng tượng – Imagine – về một thứ khác với cuộc sống hôm nay, cho muôn đời sau. Nhưng John không chỉ là một người thuần mộng mơ. Trong tuyên cáo với nhân loại, John nói rằng “Giấc mơ bạn mơ một mình chỉ là một giấc mơ. Giấc mơ bạn mơ cùng người khác là hiện thực”. Một lúc nào đó của ngày 8.12 này, bạn hãy dành thời gian để thử nghe lại Imagine đâu đó (đính kèm), có thể bạn cũng sẽ giống như hàng triệu người khác, chợt nhận ra rằng mơ về tương lai có thể làm cánh đồng cằn khô nở hoa, vượt qua mọi giam hãm của dây thép gai và đêm tối của kẻ ác... John Lennon trở lại trong ký ức nhân loại, 35 năm sau giờ phút định mệnh đó, và nhắc rằng con người hãy luôn tự dạy mình phải biết ước mơ, dù sợ hãi.
Kính,
NNS
....................................................................................................................................................
(1) Ns Tuấn Khanh: Tôi đang mơ giấc mộng dài
(Fig. Tấm ảnh của John Nguyễn)
Đã 40 năm bài hát Imagine của John Lennon, bài hát ao ước đầy thơ mộng của con người về thế giới không hận thù và sẻ chia lại có dịp nhìn thấy chính mình qua sự kiện xung đột giữa dân chúng và cảnh sát ở Portland, Oregon, Mỹ.
Cuộc biểu tình đòi công bằng cho một thanh niên da đen Michael Brown tại Ferguson, sau khi anh này bị một cảnh sát viên da trắng Darren Wilson bắn chết và được miễn truy tố đã khiến bùng nở hàng loạt các cuộc tuần hành, thậm chí đã xảy ra nhiều cuộc xung đột. Tuy nhiên, vấn đề không phải là vụ án về công bằng cho một người da đen, mà chỉ là vết thương về chủng tộc chưa bao lành vẫn âm ỉ và rách toạc. Nhiều cuộc bạo động đã xảy ra, cảnh sát đã phải dùng đến hơi cay và bắt bớ hàng loạt để mong đem lại bình ổn trong thành phố.
Ngày 25/11, trong cuộc biểu tình ở Portland, Oregon, những người tuần hành cũng mang trong mình đủ mọi cảm giác: hận thù, tức giận, chia rẻ, sợ hãi và liều lĩnh… để xuống đường Một cậu bé da đen ôm tấm bảng Free Hugs với dòng nước mắt chảy dài sợ hãi khi thấy đám đông chung quanh mình cũng như những cảnh sát chống bạo động đã trở nên quá căng thẳng. Bất ngờ, một viên cảnh sát chống bạo động khi nhìn thấy hình ảnh đó, đã tiến tới gần và hỏi vì sao em khóc, và sau đó cả hai đứng ôm nhau giữa đám đông. Mọi thứ như bị ngừng lại, xao động trong tất cả mọi người, Khoảng khắc mà sự tức giận hay điên cuồng vụt mất, thay vào đó một cảm giác ấm áp và tự vấn lương tâm.
Câu bé da đen Devonte Hart, 12 tuổi và viên trung sĩ cảnh sát Bret Barnum đã làm nên sự kiện độc đáo của ngày hôm đó. Cuộc biểu tình đã dừng lại. Bức ảnh được nhà nhiếp ảnh trẻ người Việt, Johnny Nguyen, 20 tuổi, chụp được khoảng khắc ấy và gửi đến cho tờ The Oregonian, tờ báo được nhiều nhiều quan tâm nhất của bang. Chỉ vài giờ sau khi bài viết tường thuật và bức ảnh của John Nguyễn xuất hiện, đã có hơn 150.000 lượt chia sẻ. Mọi giới truyền thông ở Mỹ đều đưa lại bản tin này như một sự thức tỉnh bất ngờ. Elwood P. Suggins, một cư dân của Oregon nói rằng ông ta tiếc rằng mình không ở trong bang chấm giải Pulitzers để trao giải thưởng của năm cho John Nguyễn và nói rằng mọi người hãy đọc câu chuyện này mà đừng quên cầm sẳn khăn giấy, vì bạn có thể rơi nước mắt sau đó.
Chuyện kể rằng khi viên trung sĩ cảnh sát Bret Barnum tiến tới và hỏi Devonte Hart tại sao lại khóc, câu bé nói rằng cậu ta đang sợ hãi trước khung cảnh bạo lực đang diễn ra, và cậu nói rằng mình sợ cảnh sát sẽ dùng bạo lực với những đứa trẻ da đen đang tuần hàng như mình. Viên trung sĩ thở dài và nói “Phải rồi, chú hiểu, chú xin lỗi cháu”. Sau đó Bret Barnum hỏi rằng ông ta có thể ôm thật chặt Devonte Hart không.
Johnny Nguyễn kể rằng ngay hình ảnh đó diễn ra, một luồng cảm xúc kỳ lạ dâng lên trong đám đông. Anh nói rằng còn nhìn thấy một thiếu niên khác đang cầm tấm bảng Free Hugs tương tự như Devonte Hart, đứng từ xa nhìn lại với giòng nước mắt lăn dài trên mặt. Câu chuyện này làm chấn động nước Mỹ, cũng như rất nhiều người đã có tuổi trẻ của mình đi qua cuộc chiến Việt Nam, thời kỳ hippy phản chiến. Giữa lúc súng đạn đi tìm con người, một thế hệ hippy đã chọn cách đi tìm sự hoang dại trẻ thơ để rũ bỏ hiện thực quá khắc nghiệt của mình. Và 40 năm trước, có lẽ một niềm tin trẻ thơ pha trộn tuyệt vọng của mình, John Lennon đã viết bài hát bất hủ Imagine, để lại một ước nguyện cho thế giới mai sau.
Nothing to kill or die for
And no religion too
Imagine all the people living life in Peace…”
Bài hát 40 tuổi lại được dịp ngân vang trong lòng mọi người. Nó nhắc rằng sẽ một ngày nào đó, sẽ không có ai vì nhân danh một lý tưởng, một nền chính trị nào đó để giết hại đồng loại của mình. Nó rằng cái cuối cùng mà con người tìm kiếm, vượt ra ngoài quyền lực, vượt ra ngoài chiếm đoạt và dối trá, chỉ là sự bình yên trong cuộc sống này.
John Lennon không sống đủ dài để thấy giấc mơ của mình ra sao. Nhưng ông đang trao giấc mơ đó cho rất nhiều người còn lại. Giấc mơ về lòng nhân ái sẽ còn dẫn đường cho con người đến tương lai, giấc mơ đó, có tôi và các bạn.
(*) Free Hugs xuất phát từ ngày International Free Hugs Day, theo Wikipedia diễn giải, là một ngày hội được lập bởi nhiều tình nguyện viên tại hơn 80 quốc gia trên thế giới, vào ngày chủ nhật trong tuần thứ 3 của tháng 7. Đây là một dịp để mọi người nhận được những cái ôm thân tình từ những người khác nhằm gửi gắm thông điệp yêu thương, thân thiện giữa mọi người với nhau.../ (*) tựa đề mượn ý từ một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy
(2) Bs Hồ Hải: Từ gold dollar chuyển sang oil dollar để cai quản toàn cầu
 Tôi đã từng viết về vấn đề vàng đô để tiên lượng kinh tế toàn cầu nói chung, và kinh tế của từng quốc gia, và gia đình nhỏ. Trong những bài viết đó, tôi đã từng nhắc đến đề tài này. Hôm nay, tôi xin hệ thống lại để thấy Hoa Kỳ quản lý toàn cầu như thế nào?
Dù thế giới có thay đổi thế nào đi nữa, thì 100 năm tới Hoa Kỳ vẫn là cường quốc số 1 về khoa học kỹ thuật, giáo dục. Từ đó, nền tảng lý thuyết kinh tài cũng từ đất nước này đẻ ra, nhờ vào họ biết thúc đẩy tất cả tiềm năng trí tuệ của con người. Và nước Mỹ vẫn sẽ lèo lái kinh tế toàn cầu, xoay chuyển chính trị toàn cầu, và là quốc gia cầm lái vĩ đại. Tháng Mười Hai năm 1944, hơn 70 quốc gia họp nhau ở thành phố Bretton Woods thuộc bang New Hamshire Hoa Kỳ để quyết định chuyển trung tâm quyền lực kinh tài từ Luân Đôn sang Nữu Ước, và đồng dollar Mỹ là thống soái thay vì Bảng Anh. Cần nhắc lại, bang New Hamshire là bang đẻ ra những sáng kiến to lớn cho Hoa Kỳ và cho thế giới nói chung. Một trong những sáng kiến vĩ đại nhất mọi thời đại về giáo dục do các giáo sư đại học của bang này đưa ra. Đó là, trả quyền tự trị về cho các đại học, đi đôi với đại học phải đi đầu trong nghiên cứu phục vụ cho nhân sinh. Để sáng kiến này được các nhà thờ và chính quyền Hoa Kỳ vào thế kỷ XIX đồng ý, thì đã có nhiều giáo sư, sinh viên phải chết hoặc đi tù. Cũng tại New Hamshire này, hệ thống Bretton Woods ra đời. Nó buộc các đồng tiền mạnh gắn chặt vào vàng. Tỷ lệ 35 dollar Mỹ ăn 1 ounce vàng. Sau đó, các đồng tiền khác đi theo dollar Mỹ. Ví dụ 1 dollar Mỹ ăn 2 Đức Mã, bằng 0.75 Bảng Anh, và bằng 80 Yên Nhật, etc - gold dollar.
Lý do phải chuyển đổi quyền lực từ Anh sang Mỹ, vì lúc đó, Hoa Kỳ chiếm lĩnh hơn 50% thị trường xuất khẩu toàn cầu. Nước Mỹ tiêu dùng hơn 50% toàn cầu cộng lại. Hoa Kỳ đã lập ra những hệ thống phòng thủ như NATO và hiệp ước an ninh với Nhật Hàn để chống lại cộng sản. Hoa Kỳ bảo kê an ninh quốc phòng, các quốc gia đi theo Hoa Kỳ chỉ cần làm ăn và đóng phí cho những cuộc chiến tranh mà Hoa Kỳ thấy cần thiết, để bảo vệ các quốc gia cùng phe nhóm với Hoa Kỳ.
Nhưng từ năm 1944 đến 1970, các quốc gia dưới quyền như Đức và Nhật phục hồi nhanh chóng. Họ chiếm lại thị phần xuất khẩu thế giới, cũng như khả năng tiêu dùng của họ cũng tăng cao chiếm khoảng 25% toàn cầu. Họ yêu sách, phải bỏ hệ thống Bretton Woods để họ tự do làm giá đồng tiền của nước họ, nhằm phụ vụ cho việc xuất khẩu dễ dàng hơn, bằng cách hạ giá đồng bạc nội địa của mình. Trong 25 năm kinh tế toàn cầu bình yên nhờ hệ thống Bretton Woods, nay sóng gió bắt đầu, khi tổng thống Nixon đồng ý yêu cầu của Đức và Nhật. Ông quyết định hủy bỏ hệ thống neo giá đồng tiền vào vàng, thả nổi đồng tiền toàn cầu, và trả 24.000 tấn vàng của các quốc gia ký quỹ vào kho vàng Nữu Ước để được phép in tiền khi cần tiêu xài cho quốc gia, mà hệ thống Bretton Woods quy định.
Bắt đầu năm 1971, Hoa Kỳ chuyển sự neo đậu giá đồng tiền vào vàng sang năng lượng - dầu hỏa: oil dollar - cũng là lúc Hoa Kỳ dùng đồng dollar neo vào dầu hỏa để cai quản toàn cầu. Vì thế giới công nghiệp cần năng lượng. Cho đến nay năng lượng từ dầu hỏa vẫn là nguồn chính mà toàn cầu sử dụng.
Suốt từ 1971 đến 1978, giá dầu quanh quẩn 20 dollar/thùng. Nhưng khi phong trào cộng sản thế giới lan rộng đến các quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông - giếng dầu thế giới - thì Iran tách ra sự che chở của Hoa Kỳ. Sự kiện 52 con tin ngoại giao năm 1978 do Iran bắt giữ, đã làm giá dầu tăng gấp 3 lần. Giá vàng vì thế cũng tăng cao nhất trong lịch sử từ 35 dollar/ounce lên đến 850 dollar/ounce! Khi 52 con tin được giải thoát, tình hình giá dầu trở lại quanh quẩn 25 dollar/thùng, và giá vàng trở về khoảng 100 dollar/ounce. Nhưng sau khi sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nó đã để lại nhiều thiệt hại cho Hoa Kỳ vì những cuộc chạy đua vũ trang trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ múa gậy vườn hoang suốt gần 20 năm từ 1990 đến 2008. Làm anh cả ôm đòm, nợ công Hoa Kỳ tăng quá mức. Bong bóng đầu tư bảo hòa và vỡ tung. Một cuộc đại khủng hoảng toàn cầu lớn nhất kể từ 1933 bắt đầu từ Hoa Kỳ.
Trong đại khủng hoảng đó, Hoa Kỳ đã vay 800 tỷ dollar từ Trung Cộng để giải quyết. Thế là, một số cuộc chiến ở Bắc Phi Trung Đông nổ ra, làm nghẽn mạch chuyển dầu đi tới toàn cầu, giá dầu tăng ngất ngưỡng, có lúc cao nhất lên đến 140 dollar/thùng vào tháng Chín năm 2008. Giá vàng lập kỷ lục mới với 1900 dollar/ounce. Và sau 6 năm lên nắm quyền, đảng Dân Chủ ở Hoa Kỳ đã chỉ lo khôi phục kinh tế Hoa Kỳ, điều chỉnh sự tham chiến trân toàn cầu. Giờ kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng từ < 1% lên 4.5%/năm. Tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ quay về con số lý tưởng < 5%.
Ngay tức thì khi Hoa Kỳ ổn định kinh tế, câu chuyện Nga xâm lược Ukraina xuất hiện. Một lệnh cấm vận kinh tế với Nga. Trong khi đó, Hoa Kỳ thành công việc nghiên cứu và sản xuất vắt đá thành dầu (shale oil), và đến năm 2015 sẽ là quốc gia sản xuất dầu nhiều nhất thế giới. Hoa Kỳ là quốc gia sử dụng dầu nhiều nhất thế giới, khoảng hơn 20% toàn cầu, trong một quốc gia chỉ có 5% dân số so với toàn cầu.
Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, tổ chức các quốc gia sản xuất dầu đã tăng đầu tư và xây dựng nhà máy lọc dầu, khai thác thêm nhiều mỏ dầu mới. Nay, Hoa Kỳ độc lập năng lượng, không còn lệ thuộc nhập khẩu dầu. Nguồn cung dầu tăng, trong khi nhu cầu nhập khẩu của quốc gia sử dụng dầu nhiều nhất thế giới không còn nữa. Huyết mạch chuyển giao dầu thông thoáng. OPEC vẫn cứ sản xuất đều đều không giảm. Vậy là giá dầu giảm. Giá dầu giảm, thì giá vàng cũng giảm theo.
Nước Nga mạnh lên trong 10 năm nhờ khủng hoảng kinh tế Hoa Kỳ, vì chỉ biết bán tài nguyên dầu hỏa, khí gas để ăn. Nước Nga mạnh lên thì Hoa Kỳ và Trung Cộng cũng khốn khổ vì giá dầu tăng, vì họ là những quốc gia đứng thứ nhất và thứ hai sử dụng dầu nhiều nhất thế giới. Ông Putin đã gặp thời khi lên nắm quyền ngay lúc giá dầu tăng, thực ra ông không có tài năng gì, ngoài tư tưởng và hành động độc tài được nuôi dưỡng từ thời cộng sản Liên Xô. Nay giá dầu xuống. Nước Nga khốn đốn. Ông Putin quen là lãnh đạo ăn bám của để dành của tổ tiên. Nay không có sáng kiến gì để vực nước Nga, vì hơn 200 ngàn tài năng khoa học Nga đã bị chảy chất xám sang phương Tây và Hoa Kỳ trong 12 năm cầm quyền của ông. Quanh ông không còn ai biến nước Nga trở thành một quốc gia hùng mạnh nhờ vào trí tuệ, mà chỉ là những kẻ ăn bám như ông.
Oil dollar đã làm mưa, làm gió suốt 10 năm qua. Giờ đã đến lúc mưa tạnh, gió hòa. Cũng là lúc Hoa Kỳ hùng mạnh trở lại. Cũng là lúc Trung Cộng chật vật với bong bóng đầu tư. Cũng là lúc mà nếu ông Putin muốn trợ giá đồng Rub của mình thì, 400 tỷ dollar dự trữ từ bán dầu và khí gas của nước Nga chỉ có thể dùng trong 60 ngày!
Dầu giảm còn $64.40/thùng nó làm giá vàng sáng nay hạ thẳng đứng 1 phát chỉ trong 1 phút đồng hồ tới $39.10/ounce, chỉ còn $1151.60/ounce. Mốc $1.000/ounce đang chờ trong 1 tháng cuối năm 2014. Oil dollar bình yên thì ông Putin thả nổi đồng Rub Nga từ 35 Rub ăn 1 dollar lên đến 50 Rub ăn 1 dollar. Thả nổi đồng Rub Nga thì của cải để dành của dân Nga từ tiền thành giấy lộn. Thả nổi đồng Rub tức có nghĩa là ông Putin thả nổi luôn sự nghiệp chính trị của mình.
Oil dollar bình yên đồng nghĩa với Hoa Kỳ vững mạnh, và thế giới đối nghịch đang chật vật với cơm áo gạo tiền. Một bài toán rất đơn giản nhưng rất công phu để làm thế nào để trở thành kẻ thống trị toàn cầu. Hay nói cách khác, chính trị và kinh tế là một nghệ thuật của sự có thể... (Asia Clinic, thứ Hai, 01/12/2014. Source: Blog Bs. Hồ Hải)
Chú thích:

(i) Ts Trần Bá Thoại: Kỹ thuật khai thác dầu mới của Hoa Kỳ và Tầm ảnh hưởng Thế giới
Trước đây Hoa Kỳ lệ thuộc vào nguồn dầu lửa vùng Trung Đông, Venezuela và Nga. Nhưng thế cờ hiện nay đã bị lật ngược lại, Hoa Kỳ đã nắm thượng phong khi sở hữu một phương pháp khai thác dầu mỏ hiện đại và dùng dầu hỏa như một vũ khí chiến lược cho những tính toán kinh tế chính trị mới toàn cầu.
Theo kinh điển, việc đào giếng dầu đầu tiên thu thập dữ kiện địa chấn, sau đó và đào thử hàng chục lần mới được một lần trúng. Những giếng đào hụt gọi là “giếng khô” (dry holes), và phải tốn tiền nhiều và mất thời giờ đào nhầm các giếng khô này mới trúng được giếng dầu thật sự.
   Kỹ thuật mới để khoan đầu của người Mỹ là dùng vệ tinh để điều chỉnh mũi khoan, đào sâu xuống nhiều dặm dưới lòng đất rồi tùy theo vị trí có thể quay ngang và đào bên cạnh (horizontal drilling) tới mục tiêu chính xác “từng centimet”. Với những dữ kiện địa chất do kỹ thuật vệ tinh và phương pháp đào ngang này, việc đào hụt gặp các giếng khô hầu như không còn xảy ra nữa! Tại Hoa Kỳ, quan trọng nhất trong khai thác dầu hiện nay là lấy được dầu từ đá phiến (shale oil).  Shale oil  nằm dưới đáy các mỏ dầu đã bơm cạn, là mỏ đá “ngậm dầu”. Từ trước đến nay, dầu trong đá này được gọi là “dầu chặt” (tight oil), không khai thác được vì không chảy và không bơm lên được. Đáng lưu ý hơn, trữ lượng dầu đá phiến còn nhiều hơn những mỏ dầu “bơm lên được” trước đây. Kỹ thuật khai thác dầu đá phiến kết hợp 2 động thái: (1) Đào ngang theo hướng dẫn của vệ tinh để tiến vào mỏ dầu đá phiến và (2) Bơm hàng triệu lít nước với áp suất cực cao vào các khe nứt của mỏ đá phiến (shale oil). Dầu và khí đốt trong đá phiến được rút ra và được bơm thẳng lên trên mặt đất. Kỹ thuật này gọi là hydraulic fracturing, thường gọi tắt là fracking và hiện đang được áp dụng tại ba vùng có mỏ dầu shale oil lớn nhất Hoa Kỳ. Đó là vùng Bakken tại tiểu bang North Dakota, vùng Permian Basin gần Midland, Texas và vùng Eagle Ford tại phía Nam Texas. Nhờ vào số lượng dầu bơm từ 3 vùng này với kỹ thuật mới, mức sản xuất dầu của Hoa Kỳ đã tăng vọt từ 5 năm trở lại đây. Từ năm 2011 đến 2014, mức sản xuất dầu hỏa nhờ vào kỹ thuật fracking đã làm tăng lên được 46%, chưa bao giờ tăng nhanh lên được như vậy. Nhờ khai thác dầu hiệu quả như thế, Hoa Kỳ không còn quá lệ thuộc đến dầu lửa của Saudi Arabia, xứ nắm giữ quyền lực về dầu hỏa vì được coi là swing producer, tức có khả năng để ấn định giá cả cho dầu hỏa, trước đây. Với sản lượng dầu nhiều nhất thế giới, Saudi Arabia có thể ấn định giá cả dầu lửa cho Hoa Kỳ và cả thế giới. Để bảo vệ Saudi Arabia, Hoa Kỳ phải  đặt các căn cứ quân sự tại đây cũng như đặt Hạm đội 5 tại Bahrain để giữ an toàn cho tàu chở dầu trên vùng Vịnh. Với mức dầu hỏa sản xuất tại Hoa Kỳ chỉ trong thời gian ngắn sắp đến sẽ làm Hoa Kỳ độc lập về dầu hỏa và ảnh hưởng của Saudi Arabia đối với Hoa Kỳ đã không còn được như trước, khi Hoa Kỳ đã nắm được thế thượng phong với vũ khí chiến lược dầu hỏa. Cũng thế, lý do để Iran phải chịu vào bàn thương thuyết với Hoa Kỳ về việc tinh luyện nhiên liệu uranium cho bom nguyên tử, cũng do Hoa Kỳ đã trên chân về vũ khí dầu hỏa.
Trong cuộc khủng hoảng mới nhất hiện nay tại Ukraine, vũ khí chiến lược dầu hỏa và khí đốt cũng đã trở thành thế lực mạnh nhất cho các tính toán của Putin và Obama trong việc đối chọi giữa Nga và thế giới Tây Phương hiện nay. Hoa Kỳ và Âu Châu gần như đã chấp nhận cho Putin chiếm Crimea, nhưng muốn ngăn chặn những tham vọng kế tiếp của Putin là chiếm luôn miền phía Đông và Nam Ukraine, phân chia xứ này ra làm hai, nửa theo Nga, nửa theo Tây Âu. Putin có thế đòn bẫy là cung cấp khí đốt cho Âu Châu bằng các ống dẫn khí đốt này chạy ngang qua lãnh thổ Ukraine. Nếu Hoa Kỳ và Tây Âu làm dữ, nhất định trừng phạt Nga nặng nề hơn bằng các biện pháp kinh tế và loại Nga ra khỏi hệ thống ngân hàng và tín dụng, Putin có thể phản ứng lại bằng cách cho khóa các ống dẫn khí đốt này và 60% nhà cửa của Tây Âu sẽ lạnh cóng vì thiếu hơi đốt! Hoa Kỳ có thể cho xuất cảng hơi đốt sang Âu Châu bằng cách cho đông lạnh liquefied natural gas và dùng tầu tanker chở băng ngang qua Đại Tây Dương cung cấp cho khí đốt cho Âu Châu. Nhưng những cơ sở để làm đông lạnh hơi đốt tại Hoa Kỳ và các cơ cấu hạ tầng chưa có sẵn tại Hoa Kỳ và sẽ mất hai ba năm để có thể thay thế toàn bộ lượng khí đốt Âu Châu nhập cảng từ Nga. Thêm vào đó, hiện nay Hoa Kỳ vẫn còn lệnh cấm xuất cảng dầu do Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành luật này từ đầu thập niên 70’s khi dân chúng Hoa Kỳ phải xếp hàng để mua xăng! Muốn xuất cảng dầu, Hoa Kỳ phải bỏ luật cấm này. Nhưng hiện vẫn còn bị kỹ nghệ lọc dầu chống đối và chưa ra luật được! Lý do là các nhà máy lọc dầu hưởng lợi do việc mua dầu sản xuất tại Hoa Kỳ giá rẻ, cho lọc dầu và bán với giá của thị trường toàn cầu cao hơn nhiều. Nếu bỏ luật cấm xuất cảng dầu, các nhà máy lọc dầu sẽ phải mua dầu sản xuất nội địa với giá cao hơn nên không còn lời nữa! Vì sự chống đối của các kỹ nghệ lọc dầu, đạo luật cấm xuất cảng dầu vẫn chưa bỏ được!
Tuy nhiên nếu tình hình tại Ukraine trở thành tồi tệ hơn và Putin cho chiếm thêm đất xứ này, dĩ nhiên Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ phải bỏ luật cấm xuất cảng làm lợi cho thiểu số lọc dầu để bảo vệ cho chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ chống lại Nga!
Tuy vậy chỉ cần bị đe dọa là Hoa Kỳ sẽ thực hiện ngay việc cung cấp khí đốt đông lạnh cho Âu Châu và sẽ cho xuất cảng dầu hỏa sang, dù phải mất hai ba năm nữa, cũng đủ để cho Putin phải chùn chân và tính toán lại nếu không muốn thấy kinh tế Nga đi vào chỗ sụp đổ như Iran hiện nay. Đây là thế đòn bẫy quan trọng vì Nga hiện nay có thể được coi như một thứ Saudi Arabia thứ hai, gần như hoàn toàn chỉ sống bằng việc xuất cảng dầu hỏa và khí đốt. Kinh tế của Nga được coi là lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn lợi thiên nhiên. Putin có mua chuộc được giới quân sự và được nhiều nhóm dân chúng ủng hộ, thực ra cũng nhờ vào các nguồn lợi do xuất cảng năng lượng này. Nên khi Hoa Kỳ có lợi thế hơn về vũ khí chiến lược dầu hỏa, thế đòn bẫy này của Nga đã giảm đi nhiều hiệu quả. Và trong sự tính toán của Putin hiện nay, liệu việc chiếm thêm đất của Ukraine sẽ phải trả giá quá đắt do việc Hoa Kỳ và Âu Châu loại Nga ra khỏi hệ thống ngân hàng và tín dụng, cũng như trong hai ba năm đến sẽ ngưng mua dầu hỏa và khí đốt từ Nga. Lúc đó chắc chắn kinh tế Nga sẽ xuống dốc không phanh và sụp đổ dễ dàng. Putin dĩ nhiên sẽ tính toán lợi hại với các giả sử và bài tính khác nhau để chọn con đường đi tới trong vài tháng sắp đến. Việc Putin gọi điện thoại thẳng nói chuyện với Obama trong hai tiếng đồng hồ và cho ngoại trưởng Lavrov gặp ngoại trưởng John Kerry tuần qua là dấu hiệu Putin có thể cũng đã chùn chân và lạnh cẳng trước những đe dọa của Hoa Kỳ về năng lượng và phải tính lại hết các bài tính chiến lược mới!
Như vậy chỉ với một tiến bộ kỹ thuật mới về đào dầu, Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn cục diện cho các thế chiến lược và chính trị địa dư của toàn cầu. Chỉ trong vòng ba năm, Hoa Kỳ đã chiếm thế thượng phong đối với vũ khí chiến lược dầu hỏa và nhờ đó thay đổi hẳn các tính toán cho vùng Trung Đông cũng như cho Âu Châu hiện tại. Kẻ thù tương lai và nguy hiểm nhất cho Hoa Kỳ hiện nay là Trung Hoa cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ vì ưu thế mới này của Hoa Kỳ đối với vấn đề năng lượng.
Tóm lại Hoa Kỳ vẫn là quốc gia hàng đầu của thế giới với những phát minh và tiến bộ kỹ thuật mới mẻ. Chỉ với một phương cách đào dầu tân tiến, Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn những thế tính toán chiến lược địa dư trên toàn cầu. Tất cả nhờ vào vũ khí dầu hỏa nay đã trở thành ưu thế chiến lược cho Hoa Kỳ để chống lại với các kẻ thù cũ như Iran, Nga, cũng như đối với kẻ thù mới trong tương lai chính là Trung Hoa vậy!

(ii) ABC (4 Dec. 14): Oil price weakness 'threatens Putin's power' in Russia
(Giá dầu giảm "đe dọa quyền lực của Putin" ở Nga)
Some of the oil exporting nations, oil price weakness it is a financial disaster. In Russia, it is estimated the falling oil prices have already cost it $US100 billion / year. With the economic sanctions imposed on Russia over Ukraine (cost $US40 billion/year), the decline in oil prices could not have come at a worse time. In consequences, as the price goes down, so too does the Russian rouble, which has declined by around 40 per cent this year.
Energy and resources specialist at London's Chatham House Professor Paul Stevens said that could spell deep economic and political trouble. "As the oil price falls, of course revenue falls, which means that the budget deficit in Russia is going to get larger and larger," he explained. "Because of sanctions, Russia's not really able to go into capital markets to borrow money, so they're going to be in serious trouble."
Dr David Cadier, an international relations expert at the London School of Economics, said the current situation could weaken Vladimir Putin's grip on power. "If the energy prices are down, if the oil price is so low, then the economic situation in Russia will be affected and, in other words, you won't be able to bring this economic development that he [Mr Putin] was able to since the old boom," he argued. "A decrease of oil prices might actually lead to a more nationalist Russian foreign policy, but it also means that Vladimir Putin's personal power might be threatened".

(iii) Thượng tướng Leonid Grigoryevich Ivashov: Nếu như ngày mai xảy ra chiến tranh Nga-Mỹ
Xin giới thiệu với bạn đọc một cách nhìn về tương quan sức mạnh quân sự Mỹ-Nga.
Bài viết của Thượng tướng Leonid Grigoryevich Ivashov, Chủ tịch Trung tâm phân tích Địa-chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục hợp tác quân sự quốc tế Bộ Quốc phòng Liên bang Nga, qua bài trả lời phỏng vấn Báo "Bình luận quân sự độc lập" đăng ngày 28/11/2014 để tham khảo.
Sau đây là nội dung bài trả lời phỏng vấn:
PV: Thưa Leonid Grigoryevich (cách gọi kính trọng Ivashov), chúng ta (Nga) đã thu được gì sau 1/4 thế kỷ cái gọi là đối tác với Phương Tây: NATO với hệ thống phòng thủ tên lửa Châu Âu (National Missile Defense - NMD Châu Âu) đã ở ngay sát nách, hạm đội Mỹ với hệ thống "Aegis" ngay sát bờ chúng ta, tại Ukraine đang xảy ra nội chiến, trên mặt trận ngoại giao không có gì thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn, còn hợp tác quân sự quốc tế gần như bị ngưng lại… Thành thử có lẽ chỉ còn trông vào sự cân bằng cán cân Lực lượng kiềm chế hạt nhân với Mỹ, như mới được (các quan chức Nga) tuyên bố thời gian gần đây?
L.G. Ivashov: Không thể trông chờ vào (sự cân bằng) đó. Trên các phương tiện mang đã được triển khai, chúng ta có nhiều hơn một khối tác chiến so với người Mỹ, nhưng điều đó không có nghĩa lý gì cả, bởi vì tiềm lực hạt nhân chiến lược của chúng ta đã không còn là yếu tố đảm bảo an ninh.
PV: Tuyên bố ấn tượng quá!
L.G. Ivashov: Chúng ta hãy cùng xem xét. Nga chỉ có thể tấn công lãnh thổ Mỹ bằng các tên lửa đạn đạo, nhưng người Mỹ có thể tấn công lãnh thổ chúng ta không chỉ bằng các tên lửa đạn đạo, mà còn cả tên lửa có cánh mà Mỹ đang có trong kho hàng nghìn quả.
Theo tính toán, trong đòn tấn công chớp nhoáng toàn cầu (của Mỹ), thậm chí (Mỹ) không cần dùng đến vũ khí hạt nhân thì cũng đã có đến 70% các phương tiện tên lửa hạt nhân của Nga bị tiêu diệt
PV: Ai đưa ra những tính toán như vậy?
L.G. Ivashov: Người Mỹ đã tính các kịch bản trên trên máy tính và luyện tập các phương án trong các cuộc tập trận tham mưu - chỉ huy.
Họ đã tính như sau: sau đòn tấn công toàn cầu - thôi chúng ta không nói về tỷ lệ nữa - phần lớn các tổ hợp "Topol", "Iars" trong các hầm phóng và trên các tàu ngầm sẽ bị tiêu diệt, đồng thời, các vệ tinh của Nga như vệ tinh trinh sát, dẫn đường và v.v. cũng sẽ bị tấn công.
Mỹ đã có Cụm phương tiện tấn công vũ trụ các mục tiêu như vậy và nó có thể được tăng cường vào bất kỳ thời điểm nào. Bên cạnh đó, Lực lượng hạt nhân chiến lược của Mỹ cũng được hệ thống NMD bảo vệ một cách chắc chắn.
PV: "Chắc chắn" có nghĩa như thế nào? Từ thời Xô Viết, người ta đã khẳng định là không có một hệ thống phòng thủ chống tên lửa nào đảm bảo 100% và sẽ không có một hệ thống nào như vậy.
L.G. Ivashov: Như đã biết, chỉ có thể bảo hiểm mới đảm bảo 100%, nhưng hệ thống NMD toàn cầu của Mỹ, căn cứ vào những lần bắn thử nghiệm mới đây nhất là một công cụ cực kỳ hiệu quả. Trước hết là các tàu chiến được trang bị hệ thống thông tin-điều khiển "Aegis", theo chương trình (của Mỹ) sẽ có 93 đơn vị tàu như vậy được triển khai, mỗi một tàu có tới hàng trăm tên lửa đánh chặn.
Đúng ra (Nga) phải đặc biệt chú ý đến "Aegis" bố trí trên các tàu, vì nó rất cơ động và không nghi ngờ gì nữa, trong giai đoạn đe dọa, các tàu lớp này sẽ có mặt ngay dưới quỹ đạo bay của các tên lửa chúng ta (Nga).
Hơn nữa, các tàu này hiện đang liên tục xuất hiện lúc thì ở Biển Baren, lúc thì ở Biển Đen, còn chiếc tàu tuần dương mang tên lửa có điều khiển hiện đại nhất của Mỹ "Monterey" đang thường xuyên có mặt dọc các bờ biển của nước ta (Nga)
Còn các thành tố trên mặt đất trong hệ thống NMD của Mỹ ở Ba Lan và Rumani. Các hệ thống được bố trí tại đó có tầm bắn 5.500 km, có nghĩa là với tới tận sông Volga.
Từ thực tế trên, có thể rút ra kết luận là vào thời điểm này người Mỹ sở hữu khả năng tiêu diệt các tên lửa chúng ta khi chúng bắt đầu tăng tốc, "xử lý" các khối tác chiến khi chúng đang bay trên quỹ đạo và khi các đầu tác chiến bay trong bầu khí quyển, các tổ hợp THAAD và Patriot (của Mỹ) sẽ vào cuộc.
Đến năm 2018, Mỹ lên kế hoạch sở hữu hệ thống NMD có thể bảo vệ Mỹ trước các Lực lượng hạt nhân của Nga, nếu như không được 100 % - dĩ nhiên là rất khó để đạt được tỷ lệ như vậy - thì cũng với mức độ rất cao.
Chúng ta (Nga) không có hệ thống NMD như vậy. Chính vì vậy mà có thể hình dung như sau: khoảng vài chục khối tác chiến của Nga sẽ bay đến lãnh thổ nước Mỹ, còn từ Mỹ đến Nga khoảng 500. Mỹ phóng bao nhiêu tên lửa thì sẽ có bấy nhiêu quả bay đến lãnh thổ Nga, chúng ta (Nga) không có gì để đánh chặn chúng.
Hiện không có bất cứ một sự cân bằng chiến lược nào và cần phải chấp nhận một thực tế là người Mỹ đang có một tiềm lực (quân sự) tiến gần đến ngưỡng đạt ưu thế quyết định trước các Lực lượng vũ trang Liên Bang Nga.
Hướng của đòn tấn công chủ yếu
PV: Người Mỹ sẽ sử hiện thực hóa ưu thế của mình như thế nào?
L.G. Ivashov: Tôi có lẽ không loại trừ khả năng tiến hành đòn tấn công chớp nhoáng toàn cầu, bởi vì các sự kiện trên thế giới đang phát triển theo hướng buộc người Mỹ phải hành động. Hãy nhìn xem. Năm 2015, Trung Quốc sẽ tuyên bố là nền kinh tế số một thế giới, có nghĩa là Mỹ mất vai trò dẫn đầu trong kinh tế.
Còn nước Nga, mặc dù có những vấn đề nội bộ của mình, đã trở thành quốc gia dẫn đầu các tiến trình chính trị, và tôi có thể nói ở mức cao hơn - là địa - chính trị của một thế giới đổi mới với những đường nét cơ bản đang được thể hiện rõ: thành lập Quốc gia liên minh (Nga- Belarus-ND), Liên minh Á-Âu đã được công bố thành lập, thành lập Tổ chức hợp tác Thượng Hải,- nhưng quan trọng nhất vẫn là nhóm BRICS (Brazil, Russia, India, China, South Africa). Trong mọi trường hợp, người đưa ra sáng kiến đầu tiên đều là Nga.
PV: Tại sao BRICS lại làm siêu cường duy nhất trên thế giới quan ngại?
L.G. Ivashov: Thứ nhất, BRICS - đấy là một nửa thế giới. Thứ hai, đây không chỉ đơn giản chỉ là các quốc gia, mà là các nước đại diện cho các nền văn minh. Nếu xét về bản chất, đây là một Liên minh của các nền văn minh không phải là văn minh Phương Tây.
Ngoài ra, trong khuôn khổ nhóm BRICS cũng đã thiết lập những cơ cấu thay thế IMF, WB và Hệ thống dự trữ liên bang (Mỹ-ND), đã có những thỏa thuận về thanh toán trong thương mại bằng các đồng tiền không phải là đôla. Dễ gì người Mỹ có thể chấp nhận vai trò thứ hai trong kinh tế và trong nền chính trị thế giới.
PV: Ông cho rằng, chỉ cần thay đồng đô la bằng đồng rúp và đồng nhân dân tệ là đủ cơ sở để Mỹ sử dụng lực lượng vũ trang?
L.G. Ivashov: Như chúng ta đã biết, sau ngày 11/9/2001 Mỹ đã thông qua các đạo luật và các sắc luật và đã được Quốc hội phê chuẩn. Các đạo luật và sắc luật này cho phép Mỹ có quyền tiến hành các đòn tấn công bất kỳ quốc gia nào nếu Mỹ cho rằng là trên lãnh thổ quốc gia đó đang hình thành các mối đe dọa an ninh Mỹ. Thực chất, những đạo luật như vậy đã phá vỡ các cơ sở của Luật pháp quốc tế và toàn bộ hệ thống an ninh. Nhưng chúng đã được thử nghiệm ở Nam Tư, Iraq và Lybia, và bây giờ nó đang nhằm vào Nga. Công tác chuẩn bị đã được tiến hành: bắt đầu là từ diễn đàn Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và sau đó là tại diễn đàn G-20, Barack Obama tuyên bố là cùng với dịch sốt Ebola, nước Nga là mối đe dọa chủ yếu đối với nhân loại. Đổ thêm dầu vào lửa là phát biểu mới đây của Tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang thống nhất NATO tại Châu Âu, tướng Mỹ Philip Breedlove về việc Nga đe dọa Phương Tây, vì "nước này đang tiến sát đến biên giới NATO".
PV: Có lẽ vì ông này học kém ở West-Point (Học viện quân sự nổi tiếng của Mỹ) chăng?
L.G. Ivashov: Dù thế nào đi nữa thì tiếp sau các tuyên bố như trên đã có các bước đi cụ thể. Chúng ta ít để ý đến một thực tế là hiện nay NATO đã tập trung gần như toàn bộ những gì cần thiết để tiến hành đòn tấn công chớp nhoáng toàn cầu, khối này đã triển khai ngay sát biên giới của chúng ta thêm 5 căn cứ quân sự nữa. Thêm một dẫn chứng: Ba Lan đưa ra sáng kiến thành lập một liên minh chống tên lửa với Latvia, Estonia và Litva - những động thái như vậy nhằm mục đích gì? Nói chung, chỉ có những kẻ mù, điếc và thiểu năng mới không hiểu một thực tế: Chúng ta (Nga) đã bị một vành đai chống tên lửa bao vây từ 4 phía.
Nga cần các căn cứ sát nách Mỹ
PV: Bức tranh có vẻ ảm đạm quá (nguyên văn - ngày tận thế). Chúng ta phải làm gì, nếu như, như ông đã khẳng định là ngày mai có thể xảy ra chiến tranh?
L.G. Ivashov: Nếu như chúng ta không thể chặn được tên lửa đạn đạo, nếu như chúng ta không có phương tiện để đánh chặn, thậm chí chỉ để phát hiện tên lửa có cánh, cần phải thay đổi một cách căn bản cách tiếp cận quân sự -chiến lược đối với vấn đề đảm bảo an ninh- phải cấp tốc thành lập các cụm quân tấn công và bố trí chúng ngay sát nước Mỹ để có khả năng ngay lập tức tấn công lãnh thổ Mỹ.
Không những thế, cần phải giải quyết vấn đề này một cách đồng bộ. Nó bao gồm các tàu nổi và tàu ngầm mang tên lửa có cánh cùng các cụm quân mặt đất trên lãnh thổ các nước bạn bè của chúng ta.
PV: Lại một cuộc khủng hoảng Caribe lần nữa chăng?
L.G. Ivashov: Người Mỹ không để cho chúng ta một lối thoát nào khác. Phương án số một - tấn công lãnh thổ nước Mỹ từ cự ly gần nhất có thể. Tại sao các tàu của chúng ta không thể hiện diện gần bờ biển Mỹ, nếu các tàu sân bay của Mỹ nghễu nghiện ngay sát nách chúng ta - ở Nhật Bản cũng đã triển khai hệ thống "Aegis"?
Nói chung, chính chúng ta (Nga) có lỗi, tự mình đưa mình vào tình thế khó khăn như hiện nay, tự mình giải trừ quân bị không có chừng mực trong khi người Mỹ đã làm tất cả để đạt được ưu thế quân sự quyết định trước chúng ta.
PV: Như vậy ông khẳng định rằng, chiến dịch "Khủng hoảng Caribe lần hai" sẽ có ích cho chúng ta?
L.G. Ivashov: Năm 1962, các đòn tấn công hạt nhân vào Liên Xô được ngăn chặn bởi vì chúng ta đã triển khai các tên lửa hạt nhân và không quân tại Cuba. Xin hãy nhớ lại những diễn biến sự kiện. Người Mỹ bắt đầu triển khai tên lửa tại Thổ Nhĩ Kỳ. Kế hoạch của Mỹ khi thành lập cụm quân tên lửa và không quân như vậy là để ngay lập tức tiến công 300 thành phố của Liên Xô.
Và nếu như những lực lượng cần thiết đã được triển khai đầy đủ thì không còn nghi ngờ gì nữa, đòn tấn công đã được thực hiện. Nhưng khi đó, các tên lửa của chúng ta xuất hiện ngay trước mũi người Mỹ, và vì người Mỹ quá hiểu là sẽ có các đòn tấn công trả đũa nên tâm lý hiếu chiến của xã hội Mỹ mà trước hết là của giới lãnh đạo mới nhanh chóng nguội đi, vì thế mới có các thỏa hiệp và sau đó là tiến trình giải trừ quân bị.
Mười năm sau đó chúng ta (Nga-Mỹ) ký được Hiệp ước về hạn chế hệ thống phòng thủ tên lửa (năm 1972) và đã thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp- được gọi là đường dây đỏ (nóng) nối Lãnh đạo Mỹ và lãnh đạo Liên Xô để đề phòng những trường hợp không lường trước.
Và trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang không có gì để đánh trả đòn tấn công chớp nhoáng toàn cầu, ngoài việc thực hiện lại kịch bản năm 1962, mà cụ thể là: bố trí vũ khí chính xác cao của chúng ta sát biên giới nước Mỹ, để có thể đảm bảo chắc chắn là sẽ đánh đòn trả đũa.
PV: Liệu ý tưởng sử dụng lãnh thổ BRICS cho các mục đích trên có thực tế không?
L.G. Ivashov: Trước hết, trong tình hình quốc tế như hiện nay cần phải thỏa thuận với người Trung Quốc về hợp tác chống lại các hệ thống NMD của nước ngoài.
Trong thỏa thuận đó cần phải có một điều khoản nào đó ghi nhớ là trong trường hợp một trong hai nước bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân hoặc các đòn tấn công phi hạt nhân ồ ạt, thì để đáp trả, chúng ta (Nga và Trung Quốc-ND) sẽ áp dụng một số biện pháp chung nhất định nào đó.
Người Trung Quốc hiện giờ chưa sẵn sàng cho một liên minh quân sự lớn (với Nga-ND), nhưng để thiết lập mối quan hệ đồng minh ở một hướng nhất định nào đó, rất có thể họ sẽ sẵn sàng.
Ví dụ như trong năm nay, Hải quân của chúng ta đã tham gia vào các cuộc tập trận chung với Trung Quốc với kịch bản phá tuyến phong tỏa eo biển Malacka- tuyến giao thông đường thủy mà Trung Quốc sử dụng để vận chuyển nhiên liệu về Trung Quốc.
Và tương tự như vậy,- cũng có thể đối thoại (với Trung Quốc) về vấn đề chống lại NMD của Mỹ. Đây sẽ là một nhân tố chính trị- ngoại giao mạnh có tác dụng kiềm chế (Mỹ). Và nói chung, lẽ ra (Nga) đã phải suy nghĩ về việc thành lập một hệ thống an ninh quốc tế chung trong khuôn khổ BRICS từ lâu rồi.
PV: Và tất cả Châu Mỹ La Tinh, như người ta đã biết là nơi có tâm lý bài Mỹ rất mạnh, cũng đồng ý?
L.G. Ivashov: Nếu công khai thì chắc là khó, họ sẽ thận trọng vì những lý do kinh tế và chính trị. Tất cả họ đều hiểu rất rõ là các cơ quan đặc biệt Mỹ (tình báo) là những chuyên gia thượng thặng về đảo chính và các cuộc cách mạng màu.
Nhưng trong lĩnh vực ngoại giao còn có những hệ thống những thỏa thuận không công khai. Và không có gì quá gây khó khăn cho các bên để có thể thỏa thuận với nhau về việc bố trí căn cứ các tàu của Nga, ví dụ như ở Venexuela, hay Brazil.
Phương Tây buộc phải im lặng như thế nào?
PV: Liệu ngành ngoại giao của chúng ta có thể hoạt động hiệu quả ở quy mô xuyên quốc gia, nếu như trong tất cả các trận chiến sau bàn đàm phán ở Châu Âu, chúng ta - nếu nói một cách thực chất, đều đã thua và cho phép NATO tiến sát đến biên giới của chúng ta?
L.G. Ivashov: Chúng ta thua, bởi vì chúng ta không tự chủ - bị rơi vào cái thòng lọng kinh tế - tài chính của Mỹ. Và còn cái gọi là đạo quân thứ năm đã thâm nhập sâu vào tất cả các nhánh quyền lực (của Nga).
Chúng ta từng thể hiện rõ quan điểm của mình, nhưng sau đó lại bị sức ép cả từ bên ngoài và từ bên trong, và chúng ta lùi lại. Theo các quy luật trong nghệ thuật quân sự, những kẻ bỏ chạy sẽ bị truy đuổi và đánh tan..
PV: Có lẽ ông cũng biết là nhân kỷ niệm 20 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ Mikhail Gorbachev đã tuyên bố, dường như không ai đưa ra bảo đảm với chúng ta về việc không mở rộng NATO về hướng Đông, thậm chí đã không có một cuộc trao đổi nào về vấn đề này?
L.G. Ivashov: Điều đó không đúng sự thật. Không những thế, khi Hiệp ước cơ sở (về mối quan hệ Nga- NATO, hợp tác và an ninh - ký tháng 5/1997 tại Paris- ND), các bên đều thống nhất là đã hình thành một hệ thống an ninh tập thể và NATO không có lý do gì để mở rộng sang hướng Đông. Người Ý, người Hy Lạp, người Bỉ và cả người Đức đều chống lại việc triển khai các cơ sở hạ tầng quân sự tại các nước thành viên cũ khối Warszawa. Nhưng người Mỹ ấn nút và - tất cả đều im bặt. Đấy chính là lý do tại sao tất cả các tổng thư ký NATO đều làm tôi liên tưởng đến hình ảnh các con cờ trên bàn cờ và do những người chơi mạnh hơn điều khiển. Có lẽ chỉ có G. Roberon là có quan điểm độc lập. Còn Javier Solana - bị các đại tá Mỹ chỉ huy. Điều này tôi đã nói thẳng với J.Solana, ông ta tự ái và đã phàn nàn về tôi với Nguyên soái Xergeev. Ở cấp độ nhà nước cũng vậy. Hans Dietrich Genscher và Helmut Kohl (các Thủ tướng Đức) đều là các chính khách rất độc lập. Nhưng người Mỹ đã thay thế họ bằng những nhân vật dễ bảo hơn. Tôi không biết là trong các cuộc gặp kín Angel Merkel đã nói với V.Putin những gì, nhưng khi công khai bà này thể hiện một lập trường trung thành hoàn toàn với ngài B.Obama. Cũng có thể, bà này bị sức ép.
PV: Ý ông muốn nói tới việc đã "tóm được điểm yếu" của nhau để sử dụng nếu cần thiết?
L.G. Ivashov: Thế các bạn nghĩ là người Mỹ không có khả năng làm những việc này à? Một ví dụ. Khi lập kể hoạch đổ quân xuống Pristina (chiến dịch đổ bộ một tiểu đoàn lính đổ bộ đường không Nga xuống Prishtina - thủ phủ Kosovo ngày 11,12 / 6/1999-ND) thì chúng ta, để loại trừ các cuộc xung đột vũ trang (với các nước NATO) đã báo trước cho lãnh đạo bộ quốc phòng một số nước Châu Âu, trong đó có Bộ trưởng Quốc phòng Đức R. Sharping, vì ông này và các tướng lĩnh của mình đều có mong muốn hợp tác (với Nga). Thậm chí (chúng ta) còn tiến hành các cuộc hội nghị và mời Sharping đến dự, còn Tổng tư lệnh các Lực lượng thống nhất NATO tại Kosovo là đại tướng Mỹ Wesley Clark thì không được mời. Và người ta đã không tha thứ cho R.Sharping về điều đó - họ đã truy ra ông này thời còn trẻ đã tham gia vào một tổ chức cấp tiến nào đấy và cách chức.
PV: Nói một cách khác, người Mỹ đã "dọn dẹp sạch" môi trường ngoại giao ở Châu Âu và chúng ta (Nga) không còn việc gì để làm ở đó nữa?
L.G. Ivashov: Tại sao lại thế! Tôi nghĩ rằng, vẫn có các cuộc đàm phán không công khai nào đó đang được tiến hành. Bởi vì không phải tất cả những cái gì tốt cho người Mỹ cũng đều thích hợp với Châu Âu.
PV: Theo ông thì sẽ có kết quả chứ?
L.G. Ivashov: Sẽ có, nếu như không quên rằng, chính sách đối ngoại chỉ mạnh khi đằng sau nó là một lực lượng quân sự mạnh.... (Leonid G. Ivashov - Lê Hùng (dịch))

(3) Ls Lê Công Định: Bài học đầu tiên về luật pháp tôi học ở nước Mỹ
Tôi nhận học bổng Fulbright sang Mỹ học chương trình Master of Laws năm 1999 tại Đại học Tulane ở thành phố New Orleans, bang Louisiana. Trước khi vào Tulane, tôi đến Đại học Columbia ở thành phố New York, học chương trình Orientation (định hướng) về luật và tiếng Anh. Fulbright luôn tạo điều kiện để các sinh viên có cơ hội biết thêm văn hóa tại những vùng khác nhau của nước Mỹ, nên thường người học sẽ đến vài thành phố để dự các khóa giảng. Nhờ vậy tôi được dịp sống tại New York trong hai tháng. Dù thời gian ngắn, nhưng phải nói thật, tôi yêu New York hơn tất cả những nơi khác, vì có lẽ tôi đã dành nhiều thời gian khám phá nó từ các góc cạnh khác nhau.
Hồi sống trong khu học xá sinh viên của Đại học Columbia, tôi giữ thói quen đều đặn kiểm tra hộp thư để xem gia đình có gửi thư sang hay không, vì lúc ấy ba mẹ và anh em tôi chưa ai sử dụng email. Sau một lần nói chuyện với gia đình qua điện thoại, tôi ước chừng độ mươi ngày sau thư sẽ đến. Một buổi chiều, linh tính cho biết thư đã đến, đi học về, tôi nhanh chân bước vào sảnh ký túc xá, thì thấy người giao thư đã giăng dây xung quanh nơi đặt các hộp thư. Bên trong hàng dây có một tấm biển ghi hai chữ “No entry”, cấm mọi người bước vào, để anh ta tiện sắp xếp bỏ thư. Thông thường công việc đó chỉ mất độ 15 phút, nên tôi lên phòng ngồi chờ.
Khoảng hơn một giờ sau tôi bước xuống, vẫn thấy hàng dây còn giăng ngang. Cẩn thận, tôi bước đến hỏi người bảo vệ khu học xá xem người giao thư đã làm xong chưa. Anh này nhún vai bảo không biết. Không thấy người giao thư để hỏi, tôi lại lên phòng ngồi chờ thêm nửa giờ. Sau đó, thấy trời sắp tối, tôi lại đi xuống. Lần này vẫn thấy dây còn giăng xung quanh, tôi ngó trước sau không thấy cả người giao thư lẫn bảo vệ khu học xá, nên tần ngần không biết hỏi ai. Trong lòng nôn nóng nhận thư, tôi liều lĩnh bước qua hàng dây đi vào mở hộp thư của mình. Quả nhiên có thư. Tôi mừng quá, lấy xong bước qua hàng dây đi ra.
Vừa lúc đó, anh chàng giao thư người da đen xuất hiện. Thấy tôi vừa cao chân bước qua, anh giận dữ hét lên, “tại sao anh làm như vậy?” Tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng, vội phân bua rằng vì đã chờ đợi quá lâu, lại đang cần đọc thư, mà tìm anh ấy không được, nên đành làm đại. Anh ấy tỏ ý thông cảm, không trách nữa, nhưng vẫn nói câu cuối trước khi mỉm cười với tôi: “But, law is law!” (Nhưng, luật là luật). Tôi choáng váng!
Quả thật, luật là luật, không có chuyện thông cảm hay viện cớ này nọ để vi phạm. Dù anh ấy không biết tôi là sinh viên luật, dù anh ấy chỉ là người giao thư bình thường như bao người Mỹ đang làm việc một cách lương thiện trong xã hội, nhưng chỉ một câu nói như thế của anh đã khiến tôi học được nhiều điều. Đó là bài học đầu tiên về luật pháp mà tôi học ở nước Mỹ. Tôi chợt hiểu ra vì sao nước Mỹ hùng mạnh, bởi mỗi công dân của họ đều được giáo dục đủ để biết tuân thủ luật pháp trong những điều nhỏ nhặt nhất. Đó chính là nền tảng của một xã hội văn minh và phát triển.
Bài học đầu tiên ấy tôi vẫn còn nhớ đến hôm nay. Người da đen vô danh năm nào vô tình đã trở thành thầy dạy luật đầu tiên của tôi ở Mỹ. Quả thật, không cần vào đại học, không cần những bài giảng cao siêu và khó hiểu, người ta vẫn có thể học được những điều tốt đẹp trong cuộc sống này. Về sau, khi nằm trong tù, đôi lần tôi tự hỏi phải chăng mình đã không thuộc bài học ấy, đến nỗi đã vi phạm luật pháp để vào tù (?!). Song ngay lập tức, không xấu hổ, tôi nhận ra rằng vì lý tưởng xây dựng một xã hội trọng pháp thực sự, người ta cần dũng cảm vi phạm những đạo luật bất công tồn tại lâu trong một xã hội vô pháp. Nguyên tắc nào cũng có những ngoại lệ cao cả là vậy, như lời dạy của thầy tôi ngày xưa, tiến sĩ luật Đào Quang Huy, cựu giáo sư Học viện Quốc gia Hành chánh thời Việt Nam Cộng Hòa. (Source: FB Lê Công Định)
 
(4) Vài bài Thơ (cũ) Mạc Phương Đình
Nhà Thơ/Văn Mạc Phương Đình người Cẩm An, Tam Kỳ, Quảng Nam, cựu học sinh trường Trần Cao Vân, Tam kỳ và Quốc Học, Huế. Hiện sống ở California, USA. Viết văn xuôi với bút hiệu Cẩm An Sơn, bạn có thể đọc thêm truyện ngắn tại địa chỉ :http://leuvancamanson.blogspot.com
(i) Chén trà xuân

Ngày Xuân người uống rượu 
ta ngồi uống nước chè 
ấm chè xanh Tiên Phước 
ngọt ngào mùi hương quê 
     đầu xuân nơi Bắc Mỹ 
     hơi lạnh còn tê tê 
     chén trà toả hơi nóng 
     ấm trong lòng bàn tay 
     bỗng dưng dào dạt nhớ 
     khoé mắt dường cay cay 
chừng như có giọt lệ 
rơi xuống chén trà đầy 
vị trà pha nước mắt tỏa 
mùi hương quanh đây 
     bạn bè giờ xa khuất 
     quê hương như bóng mây 
     cồn cào trong gan ruột 
     chén trà làm ta say.

(ii) Hạt nhớ

có bao người đêm nay về muộn ?
mưa nắng bào mòn gót nhỏ băn khoăn 
cõng đời sống đôi vai mỏi mệt 
vẫn miếng cơm manh áo nhọc nhằn 
     đêm nay mùa Xuân chừng như vừa lại 
     áo mỏng cuối đông còn chút lạnh lùng 
     em về ngỏ vắng đường hoa muộn 
     ngơ ngẩn bàn chân bước dửng dưng 
mơ chuyện đêm xưa, nhớ nồi bánh tét 
dáng mẹ hiền, manh áo mớí, tuổi thơ 
cuối tháng chạp bập bùng bếp lửa 
kẻ ở người đi, tháng đợi năm chờ 
     ôm mùa xuân dỗ đêm không ngủ 
     ta lang thang góc biển chân trời 
     trong tim hương cốm hay mùi rượu 
     hạt nhớ bay đầy chốn viễn khơi 

(iii) Thời gian

em vất vả đẩy mùa thu lùi lại 
dấu chân chim trên khoé mắt chợt về
lọ mỹ phẫm vơi theo ngày theo tháng 
một chút buồn len lén giữa cơn mê
............................................................................................................
Kính,
NGUYỄN NAM SƠN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét