SÔNG TƯƠNG
Nỗi Nhớ Muộn Màng

Kể từ khi Kim Trọng trao trả Thúy Kiều chiếc kim thoa cài tóc và hai bên trao đổi kỷ vật kèm theo những lời thề nguyền gắn bó keo sơn, chàng Kim trở về nơi thư viện, còn nàng Kiều về lại chốn lầu trang. Từ phen gặp lại ấy, hai bên quen biết nhau thêm, như đá biết vàng. Cách nhau chỉ một bức tường hoa, ngày ngày tay đợi mắt chờ, hai bên cùng nóng lòng mong nhớ mà hai đằng không thấy được mặt nhau. Để diễn tả nỗi nhớ nhung khắc khoải trong lòng Kim Trọng và Thúy Kiều khi ấy, thi hào Nguyễn Du đã gói ghém tình ý trong hai câu thơ:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Theo Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện), cũng như tác giả Vân Hạc (Truyện Kiều chú giải), thì hai câu thơ lục bát trên được lấy ý từ bốn câu cổ thi của Trung Quốc:
君在湘江頭
妾 在 湘 江 尾
相 思 不 相 見
同 飲 相 江 水
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
(Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không thấy mặt
Cùng uống nước sông Tương)
Còn theo Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim (Truyện Thúy Kiều) thì bốn câu thơ chữ Hán trên lấy ý từ Tình Sử Trung Quốc.
Tương Giang là con sông bắt nguồn từ rặng núi Duyên Hải, huyện Hưng An tỉnh Quảng Tây, chảy qua Hồ Nam thuộc Trường An, đổ vào hồ Động Đình dài hơn hai ngàn dăm. Mùa thu nước từ hồ Động Đình thường dâng lên to, nước từ hồ có thể chảy ngược về phía nam, sóng rất dữ khiến cá phải lặn ẩn sâu xuống đáy nước. Còn bốn câu cổ thi trên đây chính là phần trích đoạnkhúc Trường Tương Tư của nàng Lương Ý, đời Hậu Chu thời Ngũ Quí, mong gửi gấm nguồn tâm sự cho Lý Sinh, sau khi đau khổ phải xa cách người yêu. Nguyên văn bài thơ như sau:
Nhân đạo Tương Giang thâm
Vị để tương tư bán
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
Mộng hồn phi bất đáo
Sở khiếm duy nhất tử
Nhập ngã tương tư môn
Tri ngã tương tư khổ
(Người ta bảo sông Tương rất sâu
Nhưng chưa bằng nguồn tương tư
Sông sâu còn có đáy
Tương tư không bờ bến
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Tương tư không gặp mặt
Cùng uống nước sông Tương
Hồn mơ bay chẳng tới
Chỉ thiếu một điều chết
Ta vào cửa tương tư
Mới biết tương tư là đau khổ)

Trong Tình Sử Trung Quốc, con sông Tương xưa kia cũng đã chứng kiến cuộc vĩnh biệt thời vua Thuấn với Nga Hoàng và Nữ Anh, nước mắt hai bà đã thấm ướt bờ sông Tương nên trong văn chương cổ điển vẫn thường mượn hình ảnh sông Tương để nói lên sự ly biệt, ở cách xa mà lòng nhớ mong nhau. Trong kho tàng đồ sộ văn học sử Trung Quốc có quá nhiều điển cố mà hình như mỗi khi một điển tích nào đó được nhắc lại, cũng có thể ứng đối với một tình huống, thích nghi với một hoàn cảnh, làm phong phú thêm đời sống tinh thần và thi ca nói riêng. Nếu giả sử lúc này có một ai nhắc đến dòng sông Dịch chắc hẳn sẽ làm ta liên tưởng ngay đến một làn nước sông mông mênh rờn rợn sóng, gió rít từng hồi thê lương buốt lạnh cắt da, u uất tấm hào khí của một Kinh Kha sang Tần, làm đậm nét buổi tiễn biệt người tráng sĩ và con trủy thủ với mối thù tóc hờn dựng ngược, để một lần đi và không bao giờ trở lại, thì dòng Tương Giang kia cũng đã từng làm chứng nhân cho những cuộc chia ly tình ái thơ mộng và mang mang tính chất lịch sử. Cổ nhân đã biến dòng Tương Giang thành một biểu tượng bất tử, một chất men xúc tác cho thi hứng của bao nguồn tâm sự, thương nhớ ngút ngàn. Qua thi ca con sông Tương đã vượt thác khỏi giới hạn không gian của địa dư thuần túy để lãng đãng bay bổng thấm nhuần vào lòng người. Tương Giang con sông của những khối tình lận đận, không trọn vẹn hay những khát vọng không nguôi ngoai. Hãy thử trích đoạn một bài thơ khác bằng chữ Hán nhan đề Biện Giả (辯賈), trong Bắc Hành Thi Tập của Nguyễn Du:
不涉湖南道
安知湘水深
不讀懷沙賦
安識屈原心
屈原心湘江水
千秋萬秋清見底
Bất thiệp Hồ Nam đạo
An tri Tương thủy thâm
Bất độc Hoài Sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm
Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy
Thiên thu vạn thu thanh kiến để
(Không đi qua Hồ Nam
Sao biết sông Tương sâu
Không đọc bài phú Hoài Sa
Sao biết được lòng Khuất Nguyên sầu
Lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương
Nghìn sau vẫn còn trong suốt đáy)
Trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, hình ảnh sông Tương cũng hơn một lần được nhắc đến nhưng cái vẻ mênh mông sâu thẳm kia của sóng nước Tương Giang tuyệt nhiên đã không còn nữa mà giờ đây chỉ còn là một dòng sông khô cạn nước, bé nhỏ như một giải lụa đào, chỉ cần vén khẽ đôi gấu quần cũng có thể lội qua:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Từ ngữ nông sờ theo nguyên nghĩa được gắn bó với hình ảnh sông Tương, phản ánh sự dồn nén tình cảm luân lý dưới lớp váng của một không khí đậm đặc Nho Giáo, như một con chốt cốt ý được khép hờ, chỉ chờ đến một giây phút bất ý sẽ được nổ tung, như chiếc cầu nhỏ vắt vẻo, rung rinh chỉ được tạm gác lên để nối liền hai tâm hồn đang khắc khoải tương tư khi mới độ thăng hoa, chẳng khác chi một điềm báo trước bất an khi mà sau này bức tường hoa ngăn cách giữa hai nhà Thúy Kiều và Kim Trọng đã chẳng thể còn là bức trường thành ngăn cản được bước chân nàng Kiều tìm đến với chàng Kim.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét