Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Chủ Nhật, 16 tháng 1, 2022

Sư Phạm - Một Con Đường - Lê Duy Đoàn

                (hình minh hoạ)
 Tôi kể có phần dông dài một chút những chuyện của tôi, mong người đọc không phiền lòng. Từ những chuyện riêng tư của mỗi người mà chúng ta có thể nhìn thấy một không gian chung có mình dự phần trong đó. Người đọc cứ xem như đây là một chuyện trà dư tửu hậu mà thôi  Tôi là con trưởng trong gia đình đông con. Tôi được sinh ra và sống thời thơ ấu ở xóm Đông an, làng An ninh Hạ. Xóm Đông an này gọi nôm na là Xóm Guốc vì hầu hết con em trong xóm đều theo nghề này như là nghề truyền thống của xóm. Năm 1951, ba tôi đưa cả gia đình rời quê về lập nghiệp ở Phường Phú Thạnh, thành phố Huế. Về phường Phú thạnh, Ba tôi xin đất dựng nhà trong khu vườn rộng của ông ngoại tôi bên ngoài cửa Hữu.

<!>

Ở đây, Ba tôi vẫn theo nghề làm guốc cho đến năm 1960 mới chuyển qua nghề gõ đầu trẻ và làm Hiệu trưởng trường Sơ học Bồ Đề Phú Thạnh. Ba tôi có nhận năm người thanh niên học nghề.  Các anh là thợ học việc nhưng được trả công và ăn chung với gia đình chúng tôi.

Trong bữa ăn, thấy tôi cầm đũa gắp thức ăn không giống ai -hầu hết mọi người sử dụng đũa bằng đầu ngón tay- tôi lại kẹp cả hai chiếc đũa vào giữa ngón trỏ và ngón giữa như người ta cầm bút. Anh Thành chế diễu: “ Coi thằng Đoàn cầm đũa mắc cười chưa kìa!”. Mấy anh thợ nhìn tôi, cười cợt. Ba tôi nghiêm sắc mặt nói với họ:” Mấy đứa bay cười chi? Tụi bay cầm đũa như ri là cầm đũa kiểu thợ. Hắn cầm đũa như rứa là hắn cầm đũa kiểu Thầy”. Lời nói của Ba tôi vậy mà linh nghiệm vì khi trưởng thành, tôi theo nghề làm Thầy thật.

  

1. Làm thầy giáo ở trường trung học đệ nhất cấp Hàm Long:

 

Năm 1966, ba tôi xin thầy Thích Phước Hải là hiệu trưởng trường Bồ Đề Hàm long cho tôi dạy giờ các lớp đệ thất, đệ lục. Các môn tôi dạy là Sử địa, Lý hóa và Vạn vật. Trường Hàm Long  là hai dãy nhà trệt nằm trong khuôn viên chùa Báo Quốc, khu Lịch Đợi, ở chân dốc Nam Giao phía hữu ngạn sông Hương. Đó là cơ sở phòng ốc trước đây của Pht hc đưng Báo Quc do An nam Pht hc t chc đ đào to Tăng tài Pht giáo t thp niên 40, do Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám khi xưng.

Lương dạy giờ trường tư thục Hàm long hồi đó của các thầy giáo chuyên là 120 đồng một giờ, tôi là sinh viên, đi dạy như là việc làm thêm, lãnh chỉ 80 đồng một giờ. Một tuần tôi dạy 10 giờ, tính ra một tháng tôi lãnh 3200 đồng. So với thời giá lúc đó, đối với một sinh viên làm thêm thì lương như thế cũng khá.

Lúc đó đang còn trẻ nhưng tôi đã dạy dỗ học trò rất chững chạc, đường hoàng, đứng đắn và tự tin, dù ở những bàn cuối lớp có nhiều nam sinh cao to và tuổi đời suýt soát tuổi tôi và nhiều nữ sinh duyên dáng tuổi cập kê tuổi ông Thầy.

         

2. Thi đậu vào trường Đại học Sư Phạm Huế:

 

Tôi đậu Tú tài toàn phần năm 1964.

Những năm từ 1963 đến 1966, tình hình chính trị miền Nam xáo động nhiều. Những chính phủ miền Nam thay đổi liền liền, hết đảo chính tới chỉnh lý. Trong bối cảnh đó, những cuộc biểu tình ở Huế nối tiếp liên miên. Tôi bị cuốn theo cuồng lưu đó nên chẳng tâm trí đâu để học hành. Năm 1966, những biến động chính trị tạm lắng, tôi nhẫm lại mình mất 2 năm vô ích, nếu không học thì mất hoãn dịch vì lý do học vấn phải nhập ngũ, ra lính. Năm đó tôi vẫn theo học  lớp SPCN (Sciences, Physiques, Chimies et Naturelles). Nói tiếng Tây cho vui chứ nói rõ ra là lớp dự bị Lý Hóa Sinh của Đại học Khoa học Huế. Cuối năm đó, tôi đậu lớp dự bị. Vào niên khóa mới, trường  Đại học Sư phạm Huế thay đổi điều kiện tuyển sinh viên. Những năm trước, trường tổ chức thi tuyển giáo sinh vô năm thứ nhất từ những học sinh ưu tú có bằng Tú tài toàn phần nhưng đến năm 1967 thì tuyển giáo sinh từ những sinh viên đã đậu chứng chỉ dự bị và thời gian học hệ đệ nhị cấp rút lại là 3 niên khóa.

Tôi cũng nạp đơn dự thi nhưng không mong chi đâu được vì tôi học quá ư tài tử mà thi concours thế này tôi toàn chọi với cao thủ “gạo bài” như cháo (môn Vạn vật mà). Thế là nạp đơn cứ nạp, chơi cứ chơi, tà tà gần đến ngày thi mà tôi tỉnh như ruồi. Còn mươi ngày thì đến ngày thi, ba tôi nhắc khi mô thi mà không thấy con học chi cả, tôi mới giật mình. Ừ, vô lý đi thi mà “Sờ bụng Ông không một chữ nào”  thì quê quá, tôi bèn bỏ ra mấy ngày đêm ôn tập bài vở.  Ôi chao, một đống bài vở ghi chép dày cộm như ri mần răng ngốn hết đây.

Tôi bèn tỉnh lược bằng cách “chầm chày may rủi”. Mỗi môn tôi chọn 5, 6 bài có nội dung là cốt lõi của môn đó trong số khoảng 20, 30 bài để học ôn cho kỹ,  trật ra ngoài mấy câu đó thì đành chịu thua. Thế mà khi vào thi, môn thi nào đề bài có 4 câu thì đều trúng vô trong 5, 6 câu tôi dự đoán và học thuộc lòng.

Dù làm bài song suốt nhưng khi so với nỗ lực của các bạn khác, tôi có rất ít hy vọng đậu.

Ngày treo bảng, chúng tôi đến sớm, đứng xớ rớ bên ngoài, nhìn qua cửa kính tôi thấy những giám khảo cùng nhân viên văn phòng đang ráp phách, vô điểm và đánh máy lên danh sách những người thi đậu. Chợt thấy ông Nguyễn Trường Tùng, thư ký trường đi vào phòng, tôi nói với ông: “Anh vào xem danh sách ban Vạn vật coi có tên em không. Lê Duy Đoàn, anh nhớ coi dùm nhé.”

Anh Tùng vào một lúc đi ra nói nhỏ không thấy có tên tôi. Điều này đối với tôi cũng chẳng có gì bất ngờ vì ban Vạn vật hệ Đệ nhị cấp có trên 100 người dự thi tuyển nghe nói chỉ lấy trên 10 người mà học như mình thì mần răng  lọt vô cho được.

Đến khi nhân viên văn phòng mang mấy tờ danh sách trúng tuyển ra niêm yết trong bảng thông tư của trường, mặc những người bạn xúm vô xem, tôi thờ ơ vì nghĩ mình hỏng rồi, thì nghe bạn Hoàng Hữu Ân reo lên: “Ê Đoàn, mi đậu rồi tề.” Tôi không tin, nghĩ là người bạn nói đùa nhưng khi xem bảng đậu thì có tên tôi thật. Tôi reo lên ”Trúng số rồi”. Lời reo vui quả đúng với tâm trạng tôi lúc đó vì tôi tưởng mình hỏng mà lại đậu, mà học Sư phạm lại có học bổng một tháng 2000 đồng. Sướng mê tơi đi chứ?

 Kỳ thi vào trường Đại học Sư Phạm năm 1967 môn Vạn vật hệ Đệ nhị cấp có 17 người đậu, thì tôi đậu thứ 8.

Các bạn nữ sinh viên có 9 người: Hoàng thị Thủy Tiên, Trần Nguyễn Tuyết Anh, Trần Thị Thanh Đàm, Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Thị Minh Tâm, Lê Thị Thanh Trà, Nguyễn thị Ngộ, Võ Thái Thị Hoàng Hoa, Phạm Thị Ngọc Hiên. Nam sinh viên có 8 người: Nguyễn Đăng Am, Hoàng Hữu Ân, Ngô Hữu Tín, Lê văn Nhơn, Lê quang Vinh, Nguyễn Chiếu, Hoàng Kim Thọ, Lê Duy Đoàn.

 

Tôi để tên bạn Hoàng Thị Thủy Tiên đầu danh sách là có ý khoe một người đẹp trong lớp tôi. Một nhan sắc đài các chuẩn mực của một cô gái Huế toàn ròn. Vóc dáng, làn da,  khuôn mặt, cử chỉ, giọng nói, điệu cười, cả cái răng khểnh, cái lúm đồng tiền, cái chi cũng đẹp. Tánh nết Thủy Tiên thùy mị, đoan trang, vui tươi, nhã nhặn, nết na, dễ gần mà phong thái lại kiêu sa. Dù không ai bình chọn nhưng theo ý rất nhiều người, bạn ấy là hoa khôi không chỉ của sinh viên trường Đại học Sư phạm những năm  chúng tôi học ở trường mà còn là hoa khôi của Sinh viên Viện Đại học Huế thời đó nữa. Hồi đó nàng đánh đôi, đánh đọ với bạn Trần Đình Tùng, sinh viên năm cuối Đại học Y khoa Huế. Chàng và nàng đi đâu riêng tư với nhau ăn chè, ăn cháo, ăn bánh bèo chén Ngự Bình hay mua sắm gì cũng hay kéo tôi đi theo để làm “cục kê”. Hồi đó sao tôi khờ khạo thế không biết nữa?

Có điều rất rõ ràng là kỳ thi tuyển sinh viên Sư phạm năm đó chú trọng nhiều đến chất lượng chứ không phải số lượng. Nhìn con số sinh viên trúng tuyển thì biết rõ điều này. Môn Việt Hán tuyển 11 người, môn Pháp văn chỉ tuyển được 2 người, môn Anh văn chỉ 5 người, môn Sử địa chỉ 4 người, môn Toán chỉ 4 người, môn Lý hóa chỉ 8 người và môn Vạn vật nhiều sinh viên nhất cũng chỉ 17 người.

Sau khi đậu kỳ thi viết chúng tôi còn qua một kỳ thi phong cách đứng lớp (chứ không phải thi oral). Thầy Lê Trọng Vinh, Tiến sĩ Đệ tam cấp, dạy chúng tôi môn Thực vật làm giám khảo. Thí sinh lộ nỗi lo lắng và lúng túng ra mặt. Thầy Vinh cao to, trắng hồng, khuôn mặt đẹp trai, phong cách  như Tây, với vẻ mặt khoan hòa động viên mọi người. Đến phiên tôi, vừa cầm phấn viết xong đề bài trên tấm bảng đen, thầy đã khoát tay và nói: “Được rồi” làm tôi thấy nhẹ cả người.

 

Sau ngày 30-4-75, ở Việt nam, người ta thường nghe câu “Chuột chạy cùng sào mới vào Sư phạm” khi đến mùa tuyển sinh hàng năm. Điều này nói lên nghề dạy học bị xã hội xem thường, rẻ rúng như thế nào và chất lượng của thí sinh ra sao. Trung bình 3 môn thi là 15 điểm mà 9,10 điểm cũng trúng tuyển thì mấy sinh viên yếu kém này đào tạo ra thành Thầy thế nào nhỉ?

  

3.  Trường lớp.

 

Trường ĐHSP Huế nhìn từ trên cao, hai tòa nhà là giảng đường hình chữ Y, thực hiện theo đồ án của kiến trúc sư Ngô viết Thụ, khôi nguyên La Mã. Một trong hai tòa nhà sau này dùng làm trường Trung học Kiểu Mẫu Huế. Kiến trúc 2 tòa nhà bền vững, phòng ốc thoáng đãng, bố trí hợp lý chức năng sử dụng. Không gian nghiêm tịnh hợp với tinh thần Sư phạm. Được học dưới mái truờng này là niềm vinh dự của chúng tôi.

Có một thời trước 1975, ở miền Nam rộ lên phong trào coi tử vi, dịch lý, phong thủy rất rầm rộ. Nhiều sách báo nói về vấn đề này. Một số người bàn về phong thủy kinh thành Huế nói rằng Huế khó ngóc đầu lên được. Tả thanh long là Cồn Hến, hữu Bạch hổ là cồn Giả viên thật ra là đầu và đuôi con rồng Huế ẩn mình dưới làn nước sông Hương trong xanh tình tự. Khổ nỗi đầu rồng bị đóng đinh ngay vị trí con mắt (ý nói bể chứa nước ngọt cung cấp cho thành phố hình dáng như cây đinh), đuôi rồng bị chặn lại bởi Đập Đá nên rồng Huế không thể quẫy đuôi. Như thế rồng làm sao mà bay lên cho được? Lại thêm mặt tiền trường Đại học Sư Phạm và trường Kiểu Mẫu như hai tấm lưới khổng lồ bủa vây nên con rồng Huế phải chịu thúc thủ, dù tài năng bao nhiêu đi nữa cũng không làm chi được?! Chuyện liên quan đến trường của mình, người ta nói oan như vậy mà mình đành chịu không cãi được mới tức. Nơi đào tạo ra những người Thầy giáo mà mấy ông Thầy địa nói như rứa làm cho ngôi trường mang tiếng chịu lời, thật là: “Hòn đất mà biết nói năng, Mấy ông thầy địa hàm răng không còn!”

 

4.  Khai giảng:

 

Chúng tôi dự lễ khai giảng chung 5 khoa của Viện Đại Học Huế niên khóa 1967-1968, được tổ chức long trọng tại giảng đường Viện Đại học Huế. Thầy Lê Thanh Minh Châu là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế giới thiệu Thầy Nguyễn Quới đọc diễn văn. Năm đó Thầy 42 tuổi, quê ở Quảng Ngãi, là Tiến sĩ  tốt nghiệp Viện Đại học Sorbonne.

Diễn văn của Thầy lấy truyện Don Quichotte của Miguel de Cervantes làm cái sườn để dẫn giải về niềm tin đẹp đẽ của con người trong cuộc sống. Cuộc phiêu lưu kỳ vỹ và đầy hoang tưởng của Don Quichotte với người hầu cận trung thành Sancho Panza trên con lừa thật là khôi hài và thảm hại. Cuộc chiến đấu không cân sức giữa ông ta với những gã khổng lồ (thật ra chỉ là những cái cối xay gió) là cuộc dấn thân vào chốn hiểm nguy để chống lại CÁI ÁC. Một sự hoang tưởng thánh thiện, một ngụ ngôn được Thầy Quới đưa vào diễn văn khai giảng một cách rất là sinh động. Một thông điệp văn hoa cũng là một lời khuyên cho sinh viên, biết ước mơ, tìm cách thực hiện ước mơ và chiến đấu chống CÁI ÁC dù không cân sức.

Về sau này, nhìn lại những việc làm trong thời sinh viên của mình và các bạn bè cùng lứa, tôi thấy nhiều người trong chúng tôi có hơi hám của anh chàng Don Quichotte. 

 

5.  Học hành:

 

Có một điều rất đặc biệt là chúng tôi học ở trường 3 niên khóa thì có 3 đời Khoa trưởng. Năm 1967, Thầy Lê Trọng Vinh, năm 1968, Thầy Nguyễn Quới và năm 1969, Thầy Nguyễn Đức Kiên kế tiếp nhau là khoa trưởng trường Đại học Sư Phạm Huế. Bây giờ tôi đang giữ Chứng Chỉ Tạm Thay Bằng Tốt Nghiệp do Thầy Nguyễn Đức Kiên ký.

Năm 1968 Thầy Lê Trọng Vinh vào làm Thứ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục ở Sài gòn.

Chúng tôi học đồng thời 2 chương trình: Những môn học chuyên nghành Sư phạm chúng tôi học tại trường Sư phạm và các chứng chỉ Cử nhân khoa học chúng tôi học tại trường Đại học Khoa học Huế trong khuôn viên Morin. Mỗi chứng chỉ Thực vật, Động vật và Địa chất lai được chia thành 2 tín chỉ. Mục đích là ra trường Đại học Sư phạm thì sinh viên cũng lấy xong bằng Cử nhân khoa học.

Cũng nói thêm một chút về trang phục của chúng tôi ở trường. Hầu hết nữ sinh viên mặc áo dài màu trang nhã, kín đáo và nam sinh viên bắt buộc phải mang giày, áo chemise màu trắng cổ thắt cravate khi vào trường Sư phạm. Các phân khoa khác của Viện Đại học Huế không bắt buộc sinh viên như thế.

Bạn bè trong lớp chúng tôi rất thân thiết, ngoài nhưng buổi học chúng tôi còn tổ chức du ngoạn, thường rủ nhau đi uống café hay ăn chè Cồn, ăn bánh bèo Ngự Bình, liên hoan với nhau mỗi khi lãnh học bỗng. Cho đến bây giờ chúng tôi vẫn liên lạc, giữ tình thân và gặp nhau mỗi khi có dịp.

  

6. Thực tập:

 

Thời gian học tập ở trường Sư phạm trôi qua cũng nhanh. Hai sự kiện lớn trong thời gian này là: Sự kiện Tết Mậu thân (1968) để lại bao đổ nát, chết chóc, mất mát và tang thương trên miền đất đã nghèo mà còn cực của Cố đô Huế. Sự kiện Sinh viên Huế lãng khóa năm 1970 để lại những xáo động lớn trong xã hội và trong lòng người dân Huế. Tất cả khổ nạn rồi cũng qua.

Đến năm học thứ ba (1969-1970), chúng tôi có đợt thực tập giảng dạy trên lớp học của các trường Công lập trong thành phố Huế. Tôi được phân vào dạy ở trường Quốc Học. Thầy Phạm Hữu Hiệp hướng dẫn tôi. Khi xong đợt thực tập, ngồi nhận xét từng người một, Thầy Hiệp nói: “Anh Đoàn có lối dạy học giống phong cách giảng dạy của Thầy Hiệu (ý nói so sánh với Thầy Nguyễn Ký, nguyên hiệu trưởng trường Trung học Quốc học Huế). Giọng nói ấm, không tốn sức mà vang. Diễn đạt rõ ràng dễ hiểu. Truyền đạt đầy đủ nội dung bài giảng. Phong thái tự tin, chững chạc đường hoàng” . Một lời khen của Thầy Hiệp làm tôi vui và nhớ mãi đến tận bây giờ.

Một người bạn tôi là Nguyễn thị Hiền, được Thầy Bửu Đôn hướng dẫn, thực tập dạy lớp Đệ nhị ở trường Trung học Kiểu Mẫu, gặp rắc rối khi vào lớp bị học sinh quậy phá. Đây là lối quậy phá có bàn bạc sắp xếp trước, để nắn gân mấy ông thầy, bà thầy mặt non choẹt búng ra sữa này cho vui. Mặc dù không được phân vào thực tập tại trường Kiểu Mẫu nhưng do các bạn thực tập ở đây xin nên tôi cũng được Thầy Bửu Đôn cho phép vào dạy đúng lớp quậy phá đó. Mục đích là để cho chúng biết là “bắt ma phải nhờ Thầy pháp”. “Nhất quỷ nhì ma” mà còn bị bắt thì nhằm nhò chi “ thứ ba học trò”.

Sau phần gọi học sinh lên trả bài, tôi bắt đầu giảng bài mới. Vừa cầm phấn viết chữ đầu tiên lên bảng đen thì vài nữ sinh phía bên phải, rồi bên trái nhao nhao lên: “Thưa thầy, cho hỏi”. Tôi từ từ quay lại thì thấy 4, 5 nữ sinh đang đứng đưa tay lên xin hỏi. Tôi nghiêm mặt, gạt tay: “Ngồi xuống. Tôi chưa giảng câu nào trong bài mới thì các em có thắc mắc gì để hỏi? Các em có quyền hỏi nhưng phải đợi tôi giảng xong một đoạn mới được phép hỏi, nghe chưa?” Mấy cô bé hùng hổ bao nhiêu thì khi riu ríu ngồi xuống đều cụt hứng như mèo cắt tai. Giảng xong một đoạn, tôi chỉ nữ sinh trông ra vẻ rắn mắt nhất, có lẽ là đầu têu nhóm quậy phá: “Bây giờ, các em có thắc mắc gì cứ hỏi.” Cô bé nói lí nhí: “Dạ, không hỏi nữa”. Tôi chỉ mấy nữ sinh khác cũng trả lời như thế. Tôi hào hứng giảng bài cho đến khi chuông báo hết giờ.

Mấy người bạn thực tập ngồi dự giờ ở cuối lớp sung sướng ra mặt. Hiền reo lên: “ Ê, tất cả về Vỹ dạ. Tau đãi chè Cồn.”

 

7. Ra trường:

 

Mỗi khóa Sinh viên Sư Phạm ra trường đều được đặt tên khóa theo tên môt danh nhân. Khóa tôi là khóa Phan Chu Trinh.

Cả hai hệ Đệ nhị cấp và Đệ nhất cấp ra trường năm 1970 có 117 người tốt nghiệp. Riêng hệ Đệ nhị cấp chúng tôi có 49 Sinh viên tốt nghiệp.

 Tùy theo thứ hạng kỳ thi tốt nghiệp, mỗi người khi đến lượt mình sẽ được chọn trường trong danh sách nhiệm sở chiếu theo nhu cầu thực tế do Bộ Quốc gia Giáo dục gửi về Trường Đại học Sư Phạm Huế. Các nhiệm sở dành cho sinh viên sư phạm Huế tốt nghiệp trải dài qua các tỉnh thành từ tỉnh Quảng Trị cho đến tỉnh Bình Thuận.

Việc chọn nhiệm sở diễn ra công khai, minh bạch và công bằng theo thứ tự ưu tiên của bảng xếp thứ hạng  khi tốt nghiệp. Những người đỗ cao thường chọn dạy các trường ở trung tâm các thành phố, thị xã. Những người đỗ thấp hơn phải chọn những trường còn lại, thường là những trường ở các quận huyện xa thành phố. Không có chuyện chạy vạy để có chỗ dạy tốt bằng tiền bạc hay là quyền lực. Điều đó thể hiện tính ưu việt của môi trường sư phạm của miền Nam trước năm 1975.

Tôi chọn nhiệm sở là trường Trung học Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Trường này nằm ở Thị trấn Ái Nghĩa, huyện Đại lộc trù phú, về phía Tây cách Đà nẵng khoảng chừng 30 km.

Trường ở vùng nước độc và nguy hiểm nhưng nhờ gần nhà nên tuần nào tôi cũng về Huế… để kiếm vợ.

**

Sư phạm, một con đường. Con đường là đạo nên có một đạo gọi là Đạo Làm Thầy. Người theo con đường Sư phạm là theo Đạo Làm Thầy nên cần học Đạo, sống Đạo và hành Đạo để được học trò, phụ huynh và xã hội quý mến, và tự mình không hổ thẹn với danh xưng cao quý mà mình đã mang nghiệp vào thân với danh xưng: Thầy giáo.

 

Sài gòn, 31/3/2013.

Lê Duy Đoàn.

Không có nhận xét nào: