Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2016

Lá Thư Úc Châu Trang Thơ Nhạc cuối Tuần: 3 June 16 - TS Nguyễn Nam Sơn

1.Xin Hãy Làm Ánh Đuốc: Nguyệt Ánh - Việt Dzũng - Gs TranNangPhung - NNS
<!>
2. Gửi sông La: Minh Khánh - Lê Việt Hòa - Thành Lê - Gs TranNangPhung - NNS
3. Bâng khuâng đêm Hà Tĩnh: An Thuyên - Hương Lan - Hoài Nam - Gs TranNangPhung - NNS

Tình thân,
NNS
...........................................................................................................
Chuyện Thời sự & Xã hội

(i) Ts Nguyễn Hưng Quốc: Lòng tin của dân
Để theo dõi tình hình chính trị tại Việt Nam, tôi thường đọc các bài phát biểu của những người lãnh đạo trong nước, trong đó, có ông Nguyễn Phú Trọng. Nhưng thú thực, đọc ông rất nản. Quan điểm của ông thường bảo thủ, giáo điều, khuôn sáo, thậm chí ngô nghê, hay nói theo chữ dân chúng miền Bắc thường gọi ông, là rất “lú”. Tuy nhiên, bài nói chuyện của ông tại cuộc hội nghị do Ban Dân vận Trung ương mới tổ chức vào ngày 27 tháng 5 vừa qua có thể được xem là một ngoại lệ, ở đó, ông nhìn vấn đề khá đúng.
Đúng khi ông nhớ lại bài học thân dân được Nguyễn Trãi đúc kết: “Vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức dân quyết định. Vương triều nào được lòng dân, cố kết được nhân tâm thì làm nên nghiệp lớn. Trái lại, vương triều nào đi ngược lại lòng dân thì sớm muộn sẽ bị thất bại.” Đúng khi ông, từ bài học ấy, nhìn lại tình hình Việt Nam hiện nay, ông thấy lòng tin của dân chúng đối với đảng của ông càng ngày càng sút giảm nghiêm trọng.
Thật ra, những sự thừa nhận như vậy đã từng xảy ra trong quá khứ. Giữa thập niên 1950, đảng Cộng sản cũng đã từng thừa nhận họ đã sai lầm trong vụ cải cách ruộng đất và quyết định sửa sai. Giữa thập niên 1980, đảng Cộng sản cũng thừa nhận sai lầm trong các chính sách kinh tế, từ đó, quyết định đổi mới. Và bây giờ Nguyễn Phú Trọng lại thừa nhận việc đã để dân chúng đánh mất niềm tin vào đảng.
Nguyễn Phú Trọng chỉ đúng một phần khi cho nguyên nhân chính gây ra hiện tượng sút giảm lòng tin ấy là do “nhiều cán bộ thoái hoá”. Cụ thể hơn, ông cho biết: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức có quyền, có những biểu hiện sa sút phẩm chất, sống xa dân, vô trách nhiệm với dân. Nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành giữ tác phong quan liêu, gia trưởng, độc đoán, thậm chí trù dập, ức hiếp quần chúng. Một số hiện tượng tham nhũng, đặc quyền đặc lợi trong Đảng và trong các cơ quan nhà nước không được đấu tranh kiên quyết và xử lý nghiêm minh. Do đó đã làm tổn thương thanh danh, uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng”. Ông nói thêm: “Thậm chí có người vô trách nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng. Một số người còn lợi dụng chức quyền để đục khoét, vơ vét của cải của Nhà nước, trở thành những con sâu mọt tệ hại của xã hội. Có lẽ đây là điều mất mát lớn nhất trong tình cảm của nhân dân, là điều người dân cảm thấy xót xa, buồn phiền nhất”. Chưa hết. Theo Nguyễn Phú Trọng, “Một số người có chức có quyền giữ tác phong quan cách, gia trưởng, phụ trách địa phương nào, đơn vị nào, thì như một ‘ông vua con’ ở đấy. Thậm chí có cá nhân và tập thể trù dập, ức hiếp quần chúng. Những hành động đó tuy không phải là phổ biến nhưng rất nghiêm trọng, nó làm tổn thương tình cảm và niềm tin của dân đối với Đảng”...
Phân tích dài dòng, có lúc lặp đi lặp lại, nhưng ý chính của Nguyễn Phú Trọng về cái gọi là “thoái hoá” của các cán bộ đảng viên có thể tóm gọn vào bốn điểm chính: quan liêu, độc đoán, áp bức và tham nhũng.
Phân tích như vậy là khá đúng. Tuy nhiên, Nguyễn Phú Trọng chưa thành thật khi cho tình trạng quan liêu, độc đoán, áp bức và tham nhũng ấy chỉ xảy ra ở “một số” hay “một bộ phận” đảng viên và cán bộ. Ở Việt Nam, qua kinh nghiệm cá nhân, hầu như ai cũng biết tất cả những tình trạng ấy rất phổ biến. Ở đâu cũng có. Cấp nào cũng có. Làm nhỏ ăn nhỏ; làm lớn ăn lớn. Cứ hễ có chút chức quyền là tiền bạc trôi vào nhà hầu như ngay tức khắc. Trương Tấn Sang, nguyên Chủ tịch nước, từng thừa nhận tệ nạn tham nhũng không phải chỉ là vài con sâu mà là cả bầy sâu. Nhung nhúc. Và khi đã giàu có và đầy quyền lực như thế, người ta coi dân như rơm, như rác, hay nói theo hình ảnh của Nguyễn Phú Trọng, như những “ông vua con”.
Nhưng ngay cả khi thừa nhận tình trạng “thoái hoá” của cán bộ, đảng viên là phổ biến, người ta vẫn chưa tiếp cận được nguyên nhân đích thực của việc suy giảm lòng tin của dân chúng. Đó chỉ là một trong những nguyên nhân chứ không phải là tất cả. Còn một lý do khác nữa, có khi quan trọng hơn: Các chính sách của đảng. Chỉ lấy một ví dụ gần đây nhất: Nạn cá chết trắng bờ ở các tỉnh miền Trung. Sau khi gây ồn ào dư luận vài ngày, nhà cầm quyền chủ trương giấu nhẹm sự thật. Báo chí, từ đó, không được đề cập đến nạn cá chết nữa. Ngay những người thợ lặn, thấy sức khoẻ có vấn đề, đi khám, bác sĩ và bệnh viện cũng giấu kín kết quả. Hai tháng trôi qua, nguyên nhân của nạn cá chết hàng loạt vẫn chưa được công bố. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo địa phương vẫn kêu gọi dân chúng ăn cá và tắm biển. Làm sao người dân tin được khi nhà cầm quyền vẫn tiếp tục nói dối và che giấu sự thật như vậy?
Mà những hành động nói dối và giấu giếm sự thật như vậy không phải là hiếm. Có thể nói toàn bộ lịch sử của đảng Cộng sản tại Việt Nam là lịch sử dài dằng dặc của những sự nói dối và giấu giếm sự thật. Chuyện tham nhũng mà Nguyễn Phú Trọng thừa nhận là “rất nghiêm trọng”, cho đến nay, vẫn chưa hề được điều tra và xử lý. Chỉ hoạ hoằn, lâu, lâu lắm, báo chí mới làm rùm beng lên chuyện vài cán bộ phường xã hay cảnh sát giao thông nhận hối lộ. Còn toàn bộ bức tranh tham nhũng, nhất là ở cấp lãnh đạo từ địa phương đến trung ương thì vẫn bị giấu kín. Ông Lê Khả Phiêu và ông Nông Đức Mạnh lương bao nhiêu một tháng mà sau khi về hưu ở những ngôi nhà như cung điện của vua chúa như vậy? Trong giới cầm quyền tại Việt Nam hiện nay, không ai thắc mắc về những điều ấy cả.
Bên cạnh những việc nói dối và giấu giếm sự thật, điều làm cho dân chúng càng ngày càng mất niềm tin đối với đảng Cộng sản còn là vì, với họ, đảng Cộng sản càng ngày càng phản bội những lý tưởng họ đề ra lúc đầu. Đảng đấu tranh cho những người nghèo khó để tạo ra một xã hội bình đẳng ư? Trên thực tế, đảng chỉ lo giành giật quyền lợi cho bản thân họ. Dân nghèo càng ngày càng nghèo. Đảng tranh đấu cho tự do ư? Trên thực tế, đảng chỉ tước đoạt mọi quyền tự do của con người. Đảng tranh đấu cho độc lập dân tộc ư? Nhìn vào quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ gần ba thập niên trở lại đây, người ta chỉ thấy đảng sẵn sàng hy sinh chủ quyền quốc gia để bảo vệ tư thế “ông vua con” của mình.
Làm sao dân chúng có thể tin là đảng nhắm đến lý tưởng cao cả là giải phóng con người trong khi hằng ngày đảng vẫn vùi dập mọi quyền tự do, ngay cả những quyền tự do căn bản nhất của con người?
Làm sao dân chúng có thể tin là đảng yêu nước khi đảng cứ lải nhải nhắc đến những “4 tốt” và “16 chữ vàng” khi Trung Quốc càng ngày càng lấn lướt và những người yêu nước đều bị đảng trấn áp một cách hết sức tàn bạo?

(ii) Ts Nguyễn Đình Cống: Sung sướng vì được mắc lừa
BỊ LỪA HAY ĐƯỢC MẮC LỪA
Thông thường mắc lừa là “bị” chứ không thể “được” và khi phát hiện ra bị mắc lừa thì đau khổ, tức giận, hối tiếc rồi rút bài học, rút kinh nghiệm để khôn ra chứ không thể sung sướng. Thế mà lại có chuyện sung sướng vì được mắc lừa mới oái oăm chứ. Tất nhiên người ta không reo mừng rằng tôi sướng quá vì được mắc lừa đây, chỉ thể hiện bằng cách khác mà người ngoài đoán ra được.
Tại sao bị lừa mà vẫn tỏ ra sung sướng, có thể do 1 trong 2 nguyên nhân sau:
1- Vì kém thông minh (nói đúng ra là vì ngu dốt) mà nhận thức nhầm, trong một thời gian cứ tưởng rồi sẽ được lợi gì đó, không biết đã bị lừa.
2-Biết bị lừa, nhưng vì đã thông đồng với kẻ lừa để hưởng một món lợi nào đó hoặc vì biết mình quá ngu mà bị lừa nhưng đã quá huyênh hoang nên tìm cách che giấu hoặc tìm cách lừa dối người khác để trốn tội.
Xét trong chiều dài lịch sử, bọn phong kiến Trung hoa đã nhiều lần lừa vua quan Việt, trong đó chỉ một số ít lần người của ta bị mắc, còn phần lớn nhờ cảnh giác cao mà tránh được. Chỉ có dưới thời thống trị của Đảng CS, lãnh đạo và nhân dân Việt Nam đã bị lừa trong rất nhiều chuyện mà vẫn cứ sung sướng nhắc đi nhắc lại mỗi khi có dịp.
I- CSVN Đã bị CSTQ lừa rất nhiều, chỉ xin nêu vài chuyện
1- Từ năm 1941 đến 1946 Hồ Chí Minh rất muốn kết bạn với Mỹ. Chuyện này nhiều người đã biết, nay kể thêm: Ngày 2 /9/1945, tại quảng trường Ba Đình, sau khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập thì trong diễn văn tiếp theo Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Mỹ là nước dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc đánh bại kẻ thù của ta  nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt”. Nhưng rồi từ 1949 CS VN bị Mao Trạch Đông lừa, cho rằng đế quốc Mỹ là kẻ thù của giai cấp vô sản toàn thế giới, kẻ thù số 1 của phe XHCN. Việt Nam có vinh dự là tiền đồn phe XHCN, là người lính xung kích chống đế quốc. Trung cộng sẽ giúp Việt Nam đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng. Và rồi Lê Duẩn sung sướng công nhận VN đánh Mỹ là đánh cho cả Liên xô và Trung quốc. Bây giờ mới tỉnh ngộ ra là Mỹ chỉ muốn ngăn chặn làn sóng cộng sản từ Liên xô và Trung quốc chứ không hề có ý đồ xâm lược nước nào. Biết ra thì đã quá muộn nhưng vẫn không dám công nhận, vẫn tuyên bố là rất tự hào đã làm người lính xung kích chống đế quốc.
2- Năm 1958 Chu Ân Lai ra tuyên bố về quyền lãnh hải của Trung quốc bao trùm một phần lớn Biển Đông. Bản tuyên bố này bị nhiều nước phản đối. Chỉ có Phạm Văn Đồng và cả Hồ Chí Minh bị lừa để ra Công hàm 1958, gián tiếp công nhận nhiều đảo ở biển Đông là của Trung quốc. Năm 1974 Trung quốc đánh chiếm Hoàng Sa. ĐCSVN sung sướng vì Trung Quốc đã lấy được các đảo từ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, cho rằng để TQ giữ  các đảo đó tốt hơn so với việc chúng do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát.
3- Thời gian trước năm 1979 ĐCSVN bị Trung cộng lừa tôn thờ tư tưởng Mao Trạch Đông, sung sướng cho rằng được theo Mao để chống đế quốc và bọn xét lại là hạnh phúc lớn. Cũng chính vì mắc lừa ĐCS TQ mà đã gây nên thảm họa đàn áp không biết bao nhiêu người ưu tú (vụ án chống đảng do Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn tạo dựng). Sau năm 1990 bị lừa ở Hội nghị Thành Đô, ký kết 16 chữ vàng và 4 tốt, tôn sùng ĐCS Trung Quốc là lãnh đạo, là thành trì của CachMang vô sản thế giới, sung sướng cho rằng còn Trung quốc XHCN thì VN không còn lo gì hết, sung sướng và tự hào rằng ngọn cờ tiên phong của cách mạng vô sản thế giới đã chuyển vào tay của ĐCS Trung quốc và Việt Nam. Thực chất thì Trung cộng lừa cho Việt cộng kiên trì đường lối XHCN để dễ bề thôn tính.
II-Phân tích vài điều gần đây
 1-Trong Hiệp định và tuyên bố chung có điều sau: “Hai bên cam kết không liên kết với nước khác để chống lại nước thứ ba”. Đó là điều lừa dối vô cùng xảo quyệt của Trung cộng mà mỗi lần có dịp là các lãnh đạo Việt Nam lại nêu ra với đầy vẻ tự hào.
Hãy phân tích thật kỹ xem câu “Hai bên cam kết không liên kết với nước khác để chống nước thứ ba” có những ý nghĩa gì. Nước khác là nước nào, nước thứ ba là nước nào. Có khả năng xẩy ra nước thứ ba chính là Việt nam, là Trung quốc hoặc một nước thân cận của hai nước trên hay không. Không có một qui ước nào loại trừ khả năng đó. Vậy nếu xấy ra như vậy thì sao. Mà sự tranh chấp ở Biển Đông vừa qua và sắp tới có khả năng xẩy ra như thế.
Giả thử xẩy ra tranh chấp giữa Trung và Việt đến mức dùng vũ lực. Với sức mạnh của mình thì Trung quốc cần gì liên kết với nước khác để chống nước thứ ba là Việt nam. Ngược lại, Việt nam, dù là để tự vệ, dù để chống lại sự xâm lược phi nghĩa của Trung quốc thì rất cần sự liên kết với nước khác cùng chí hướng, cùng mục tiêu (ngoài việc nhận sự cổ vũ chỉ bằng mồm của nhiều nước yêu hòa bình). Lúc này, nếu VN nhận sự viện trợ quân sự của một nước nào đó thì rõ ràng là đã vi phạm cam kết, Trung quốc có cớ để lên án như đã từng viết khẩu hiệu và tuyên truyền “Việt nam ăn cháo đái bát” và gây chiến tranh biên giới năm 1979 để dạy cho VN một bài học. Còn nếu VN sợ bị vi phạm vào cam kết mà không thể liên kết với nước khác thì rõ ràng là đã tự trói mình để chịu lâm vào thế nguy hiểm.
Điều quan trọng, có ý nghĩa là: “Hai nước cam kết không gây hấn, không lấn chiếm đất và biển của nước khác” thì không viết, lại viết “Cam kết không liên kết với nước khác…”. Bất kỳ một người nào có suy nghĩ đều dễ nhận ra ý đồ lừa bịp, chỉ có những lãnh đạo cộng sản VN là không thấy hoặc có thấy nhưng vì lý do nào đó mà cứ đưa ra để khoe khoang, để tự sướng. Xem lại lịch sử, sứ thần của các triều đại trước khi đi sứ Thiên triều không có ai bị mắc lừa như vậy.
2- Điều khác: “Hai bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng hòa bình mà không đe dọa dùng vũ lực”. Điều này là đúng nhưng chưa đủ. Nếu xẩy ra tranh chấp, một bên đòi thương lượng hòa bình nhưng bên kia không chịu, hoặc thương lượng không đi đến kết quả thì giải quyết như thế nào. Theo các hợp đồng dân sự, khi hai bên không tự thỏa thuận được với nhau thì phải đưa tranh chấp ra xét xử ở một tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Điều này phải được ghi rõ trong hợp đồng. Vậy quan hệ giữa 2 nước Việt- Trung thì sao. Phải chăng là không sao cả, trông chờ vào đại lượng của Thiên triều.
Trong Lời kêu gọi vào tháng 12 năm 1946 Hồ Chủ tịch viết: Chúng ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Còn hiện nay. Cứ mỗi lần Trung quốc lấn chiếm hoặc gây sự thì từ phía VN chỉ có người phát ngôn Bộ Ngoại giao ra tuyên bố phản đối và yêu cầu đừng tiếp tục, lại huyênh hoang là tôn trọng hòa bình và luật pháp quốc tế, còn Chính phủ và Quốc hội thì quyết giữ phương châm “Im lặng là vàng”. Thế rồi Trung quốc cứ lấn, Việt Nam cứ lùi, vừa lùi vừa tuyên bố. Phải chăng chúng ta muốn hòa bình nên năm 1988 để cho 64 chiến sĩ trên đảo Gạc ma khoanh tay chịu sự thảm sát của lính Trung cộng, để cho tàu ngư dân bị bọn lạ đâm chìm mà không dám chống cự, để cho hết hòn đảo này đến hòn đảo khác lọt vào tay Trung cộng. Cùng bị lấn chiếm biển đảo, Philippines bị ít hơn nhưng họ kiên quyết kiện ra Tòa án Quốc tế sau khi TQ không chịu thương lượng. Còn chúng ta, chỉ thấy tuyên bố của Bộ Ngoại giao. Phải chăng trong việc này lãnh đạo VN cũng sung sướng vì được mắc lừa.
3- Chuyện gần đây. Trước khi xẩy ra thảm họa Biển Miền Trung từ tháng 4/ 2016, nhiều lần qua báo chí và về Hà Tĩnh tôi được nghe ca ngợi hết lời về khu công nghiệp Vũng Áng và những mối lợi to lớn do Formosa hứa hẹn mang lại. Bây giờ mới vỡ lẽ đang mắc lừa, đang không phải ở mức “ngậm bồ hòn làm ngọt” mà là dùng độc dược để giải khát. Bị mắc lừa rồi nhưng không dám nhận mà đang tìm cách quanh co để bao che, phải chăng để tiếp tục hưởng sự sung sướng và đi lừa lại người khác.
III-Đến lượt CSVN lừa nhân dân
Việc lãnh đạo CS và dân VN bị Tàu chệt lừa thì viết vài quyển sách dày để dẫn chứng và phân tích e cũng chưa hết, trên đây chỉ mới nêu ra một phần rất nhỏ. Người ta bảo, sau khi biết bị lừa thì sẽ thu được bài học quý giá mà khôn ra, thế nhưng mãi mà chả thấy CSVN khôn ra được tí nào. Không những thế, sau khi bị lừa, một số lãnh đạo CS còn mang những điều đó lừa lại nhân dân. Hay biết đâu, CSVN không cho rằng họ bị lừa mà thực chất họ muốn như vậy, muốn làm tay sai đắc lực cho CSTQ, muốn đem đất nước này lệ thuộc vào CSTQ để tạo nên một thời kỳ bắc thuộc mới.
Thảm thương thay cho một số khá đông trong dân tộc VN mấy chục năm bị lừa mà vẫn sung sướng, vẫn tự hào vì nhận được sự lừa gạt đó, vẫn tưởng rằng đang được hưởng một nền dân chủ đến thế là cùng, đang được dẫn dắt đến thiên đường nơi hạ giới. Có một số ít người nhận thức được, nói ra điều bị lừa thì lại bị vu cáo, bị đàn áp. Biện pháp để tránh bị mắc lừa là nâng cao dân trí, chống lại sự u mê và nhồi sọ, mở mang sự tiếp xúc với xã hội văn minh. Điều đáng mừng là một số dân Việt đã nhận ra và đang đi theo hướng đó.
(iii) BBC: 'Dân không muốn thần tượng tuyên truyền'
Người dân Việt Nam đang khao khát 'thần tượng', nhưng lại không muốn những thần tượng do 'tuyên truyền' và 'được dựng lên', theo ý kiến nhà nhà nghiên cứu, khách mời của BBC.
Tại cuộc tọa đàm về chuyến thăm của Tổng thống Mỹ và hội chứng mang tên cơn sốt Obama ở Việt Nam của BBC Việt ngữ cuối tháng 5/2016, Tiến sỹ Khuất Thu Hồng, nhà nghiên cứu xã hội học từ Hà Nội cho nói: "Tôi nghĩ rằng cơn sốt Obama đã cho chúng ta thấy là dân chúng muốn thần tượng của mình là ai, chứ không phải là những gì người ta dựng lên hoặc người ta cố gắng để tuyên truyền cho nó."
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội Việt Nam khẳng định: "Đấy chính là cái gọi là thần tượng thực sự mà người Việt Nam đang thiếu và khát khao. Những thứ mà khiên cưỡng thì rất khó khăn. Sự xuất hiện của ông Obama giải đáp cho chúng ta câu hỏi là người Việt Nam muốn gì, muốn thần tượng của mình phải như thế nào."
Có sính ngoại quá không?
Tại cuộc tọa đàm Bàn tròn thứ Năm của BBC hôm 26/5, trước câu hỏi dường như ở Việt Nam đã có sẵn nhiều 'thần tượng', từ những tượng đài, cho tới các tên gọi trên các đường phố, hay trong sách giáo khoa và những nơi khác, mà không phải là thiếu thần tượng, bà Khuất Thu Hồng nêu quan điểm:
TS. Khuất Thu Hồng: Không ạ. Tôi nghĩ rằng cơn sốt Obama đã cho chúng ta thấy là dân chúng muốn thần tượng của mình là ai, chứ không phải là những gì người ta dựng lên hoặc người ta cố gắng để tuyên truyền cho nó. Cơn sốt Obama nó cho thấy điều tôi nói như ban đầu là người dân Việt Nam đang thiếu một thần tượng. Thần tượng mà họ cảm thấy gần gũi với họ, mang lại, đáp ứng những mong mỏi, nhu cầu, thất vọng do về tự do, phát triển, chủ quyền, giáo dục và tất cả mọi thứ. Đấy chính là cái gọi là thần tượng thực sự mà người Việt Nam đang thiếu và khát khao. Những thứ mà khiên cưỡng thì rất khó khăn. Sự xuất hiện của ông Obama giải đáp cho chúng ta câu hỏi là người Việt Nam muốn gì, muốn thần tượng của mình phải như thế nào. [Đó] phải là một người chân thành, hiểu biết, uyên bác, gần gũi; một người có thể động đến trái tim của tất cả mọi người bằng chuyến đi và lời phát biểu của mình, bằng việc ngồi ăn bún chả hay uống cà phê sữa hay bắt tay người dân, thì ông Obama đã tạo nên một thần tượng mà từ nay người Việt Nam luôn luôn hướng đến, mơ ước và mong mỏi rằng một ngày nào đó mình sẽ có những thần tượng như thế ở đất nước này.
BBC: Liệu người Việt Nam có sính ngoại quá hay không, như một số người đặt vấn đề? Xin hỏi tiếp TS Khuất Thu Hồng
TS. Khuất Thu Hồng: Tôi nghĩ Việt Nam đã đón quá nhiều các nguyên thủ quốc gia nhưng chúng ta đã thấy có trường hợp nào tương tự như vậy không ạ? Cũng có những nguyên thủ quốc gia mà quả thật, sự viếng thăm của họ mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích về kinh tế, nhưng có được sự đón tiếp nồng ấm của người dân như vậy hay không thì chúng ta đã đều thấy câu trả lời rồi.
Hãy lắng nghe đối thoại
BBC: Chúng tôi muốn vấn ý bà Thảo Griffiths, trưởng Đại diện Quỹ cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, bà có bình luận gì về ý kiến của TS Khuất Thu Hồng?
Bà Thảo Griffiths: Tôi nhớ là năm 2000 khi Tổng thống Bill Clinton sang Việt Nam. Đấy cũng là việc có ý nghĩa lịch sử trong quan hệ Việt Mỹ bởi vì đó là chuyến đi đầu tiên của một Tổng thống Hoa Kỳ đến Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc.
Chúng ta (Việt Nam) cũng đã tiếp đón Tổng thống Bill Clinton như chúng ta tiếp đón Tổng thống Obama.
BBC: Xin được nghe ý kiến bình luận của Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang A, nhà vận động xã hội dân sự ở Việt Nam.
TS. Nguyễn Quang A: Tôi rất đồng ý với Tiến sĩ Khuất Thu Hồng về điểm đó. Bởi vì nếu chúng ta nhìn lại những thần tượng mà người ta muốn cấy vào đầu người Việt Nam trong suốt nhiều chục năm qua hoặc những vị lãnh đạo của chúng ta thể hiện một tác phong như thế nào. Tôi thấy người dân Việt Nam có một cơ hội để đối sánh thực tiễn với mong mỏi của họ. Và khoảng cách giữa thực tiễn với cái mong muốn; cũng như khoảng cách giữa thực tiễn và với mong mỏi của người ta với phía ông Obama, hai cái đó khác nhau một trời một vực.
Có lẽ, tôi nghĩ, về phía người cầm quyền Việt Nam cần phải nghiên cứu một cách rất là sâu sắc và phải tự thay đổi mình. Xã hội người dân đã tiến khá nhiều. Rất đáng tiếc là tác phong lãnh đạo, cung cách lãnh đạo vẫn giống như nhiều chục năm trước. Và khoảng cách đó càng ngày càng xa ra thì nó làm cho sự bức xúc của người dân càng lớn. Bức xúc đó có thể gây ra những chuyện bất ổn xã hội không đáng có. Chính những người lãnh đạo Việt Nam là người phải chủ động thay đổi mình để kéo khoảng cách giữa người dân với họ đang từ khoảng rộng như thế nó thu hẹp dần lại, làm sao để có thể giống như ông Obama. Đó là một vấn đề hết sức nghiêm túc mà họ cần hết sức lưu ý và chấn chỉnh. Tôi nghĩ là chỉ có như thế, lắng nghe người dân đối thoại với người dân, chứ không phải là họ đối xử với đối xử với tôi với (blogger) Đoan Trang như vừa rồi.
Thực sự cùng giá trị
TS Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ là lúc đó mới tạo được sự đồng thuận. Không có một người nào đấu tranh dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam bây giờ muốn có một sự bất ổn. [Họ] đều muốn có một sự phát triển hài hòa và chỉ muốn làm cho bản thân chính quyền phải mạnh lên. Bởi vì cái chính phủ phải có niềm tin ở chính mình và tạo ra niềm tin trong nhân dân. Đấy mới là tài sản quan trọng [mà] rất đáng tiếc trong thời gian vừa qua cái tài sản rất quý giá đấy của nhà nước thì họ đã làm xói mòn đi. Rất đáng tiếc tôi không gặp được ông Tổng thống Obama.
Nhưng hai người chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ông thì tôi có thời gian để nói chuyện. Và tôi nói với họ rằng, về cơ bản, những giá trị của Mỹ, hay giá trị của Việt Nam mà người ta coi rằng là giá trị của họ, thực sự là một. Bởi vì ông Hồ Chí Minh dẫn chiếu giá trị của Mỹ ở Tuyên ngôn độc lập; rồi Việt Nam cũng muốn xây dựng một xã hội của dân, do dân, vì dân. Đấy là của Mỹ. Nhưng họ không nói là vay mượn của Mỹ. Thế như vậy là những giá trị cơ bản của Mỹ và Việt Nam là không có bất đồng gì cả. Chỉ có bất đồng ở một điểm là cái cách thực hiện như thế nào. Một bên là chỉ có nói về cái đó nhưng không thực hiện. Thế nên tôi mới đặt vấn đề là người dân, chúng ta phải cố gắng giúp nhà nước để biến cái quyền hão, quyền ảo của chúng ta thành quyền thực. Nếu thực sự là làm với tinh thần xây dựng như thế, thì nước Việt Nam sẽ phát triển. Tôi nghĩ lãnh đạo Việt Nam nên lắng nghe và tự thay đổi, và đối thoại với người dân.
*** Nguyễn Văn Trần: Anh Hồ Chí Minh
Trang blog “Một góc nhìn khác” của ông Trương Duy Nhất có đề nghị mọi nguời nên sử dụng cụm từ “ Bác Hồ ” hay “Cụ Hồ ” sao cho đúng cả về ngôn ngữ, truyền thống và văn hóa nhân ngày sanh 19/5/1980 . Người chủ trương Blog trả lời trưóc cho câu hỏi do chính ông đặt ra :
« Gọi “bác”, thì chữ bác ấy không được viết hoa- phải là : bác Hồ. Nhưng vậy cũng không ổn. Mình đâu bà con, họ hàng gì với ổng . Thế hệ ổng, cũng đâu phải hàng lớp cha chú mình . Ông thuộc lớp người xa hơn. Đúng, phải gọi ông, hay cụ. Do sự nhồi nhét theo lối sùng tôn lãnh tụ, đến mức thành một nếp viết hoa và tụng xưng vô lối . Chữ “Bác” khi đã được viết hoa, tự thân nó đã không còn là đại từ nhân xưng nữa. Nó đã thành một tên riêng, danh từ riêng.
Nhưng quen rồi. Giờ cắt vứt đi chữ “Bác”, gọi mỗi “Hồ” cũng không ổn, nhiều khi thành ra… xấc xược. Vì thế, viết đúng, gọi đúng phải là: ông Bác Hồ, hoặc cụ Bác Hồ. Đó là khi ta cố giữ chữ “Bác”. Còn không, đúng một cách giản đơn (theo giống), nên viết là ông Hồ Chí Minh, hay cụ Hồ Chí Minh...(Trương Duy Nhất) ».
Ý kiến của một độc giả: “cụ Minh”, “bác Minh” thay cho “cụ Hồ”, “bác Hồ”
Lãnh đạo Việt Nam thường gọi nhau bằng cách dùng đại từ nhân xưng “Anh” kèm tên riêng. Thí dụ: Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh, anh Thọ, anh Giáp, anh Linh….Dân chúng thì gọi các lãnh đạo bằng cách dùng đại từ nhân xưng “bác” kết hợp với tên riêng. Thi dụ: bác Duẩn, bác Thọ, bác Chinh, bác Đồng…
Vậy, chúng ta cũng nên gọi cố Chủ tịch Hồ Chí Minh tương tự. Không nên gọi là “bác Hồ” hay “cụ Hồ” nữa, mà nên gọi là “cụ Minh” hay “bác Minh”. Như vậy mới đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa giản dị, thân mật, thuận lợi, đúng truyền thống, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Cách gọi cũ là “cụ Hồ”, “bác Hồ”, hay “Hồ chủ tịch” là lai căng, bắt trước theo cách gọi của Tàu (dùng họ, chứ không phải tên), không đúng với thuần phong mỹ tục Việt Nam .
Vậy, từ nay chúng ta nên gọi là “cụ Minh”, “bác Minh” thay cho cu Hồ, bác Hồ. Đây chỉ là ý kiến cá nhân tôi. Mong các bạn góp ý.(Sông Hồng) » .
Hai vị Trương Duy Nhứt và Sông Hồng đã có nhận xét rất rõ. Nay, NguyenVanTran tôi xin có ý thêm . Theo văn hóa Việt Nam, có lẽ dựa theo truyền thuyết một cái bọc nở ra trăm con, gọi « bác » với người lớn tuổi hơn cha của mình, « chú », người kém tuổi cha, như trong quan hệ gia đình . Ở Bắc, thì anh hay chị của mẹ cũng được gọi bằng « bác » . Người tàu và tây phương không có cách xưng hô cùng « một nhà » như Việt Nam ta .
Theo văn hóa ứng xử Việt Nam, khi gọi « bác Hồ », nếu dành cho mọi người, thì hoàn toàn không đúng bởi có những người tuổi xấp xỉ với Hồ Chí Minh và cả những người lớn tuổi hơn . Nên nhớ lúc về Hà Nội năm 1945, ông mới có 55 tuổi nếu tính theo năm sanh rởm 1980 . Từ năm 1954, ông tự bốc lên « cụ » hay « bác » với mọi người . Một thái độ thiếu khiêm tốn của một con người thật sự không có cái gì là của riêng mình có giá trị .
Vả lại, khi xưng hô « bác » – không thấy có ai gọi « chú » – thì phải « bác Nguyễn Sinh Côn » hay « bác Nguyển Tất Thành » hoặc « bác Côn » hay « bác Thành » vì cách gọi này mới có cơ sở văn hóa Việt Nam .
Nhưng có điều không giống ai vì xưng « bác » cũng bị độc quyền . Có những người mà cha kém tuổi hơn các ông Trường Chinh, Phạm văn Đồng, …cũng vẫn phải gọi các ông này là « chú » thay vì « bác » cho đúng phép . Ở miến Bắc, chỉ gọi « bác » sau khi Hồ Chí Minh chết đi . Thậm chí, sau 30/04/75, người trẻ miền Bắc vào Nam gọi mọi người lớn hơn cha mình bằng « chú » . Họ như không biết gọi ai là « bác » ngoài « bác Hồ » của họ .
Cả tiếng « bác » lại cũng bị ông chôm làm của riêng nữa!
Sau cùng Hồ Chí Minh là một tên hoàn toàn chánh trị nên chỉ gọi « bác Hồ, ông Hồ » hoặc «  bác, ông Hồ Chí Minh », chớ không nên « bác, ông Minh » vì « bác, ông Minh » là không đúng hắn . Mà tại sao không gọi « đồng chí, đồng chóe » vì cùng đảng vói nhau, như đối với những đảng viên khác ? Nội qui đảng có ghi ngoại lệ này không ?
Tóm lại, khi đối thoại với ông thì tùy quan hệ tuổi tác và vai vế mà xưng hô . Còn ngày nay, ông đã chết nên khi viết về ông, tưởng chỉ nên gọi « Hồ Chí Minh » là đủ và phải phép lắm rồi .
Báo chí tây phương, khi viết về Giáo hoàng Vatican, cũng viết tên . Viết hay thưa « Đức Thánh Cha » chỉ khi đối thoại với ông mà thôi .
Anh Hồ Chí Minh
Tại sao không có ai gọi « anh Hồ Chí Minh » ? Thưa có .
Mười Trí, tức Huỳnh văn Trí, dân Bà Quẹo, sau khi vượt ngục Côn nôn về tới đất liền, bèn cùng uống nước tiểu của nhau, thay vì trích huyết ăn thề, kết nghĩa anh em chết sống với Bảy Viễn (Lê văn Vìễn), Năm Bé và Tư Nhị . Kịp lúc phong trào Nam bộ kháng chiến nổi lên, họ cùng tham gia kháng chiến chống Pháp ở Khu 7, lập ra Chi Đội Binh Xuyên. Năm 1949, Bảy Viễn về Sài gòn với Quốc trưởng Bảo Đại, Mười Trí ở lại với Việt Minh, được Nguyễn Bình ủy nhiệm thuyết phục Bảy Viễn đừng bỏ đi nhưng thất bại . Mười Trí, thành phần xã hội khác hơn Bảy Viễn nên dễ bị ảnh hưởng cộng sản trong lúc đó Bảy Viễn quyết liệt chống cán bộ cộng sản được Hà nội gởi vào để kìm kẹp hàng ngũ kháng chiến trong Nam phải đi theo sát đuờng lối và mục đích cộng sản .
Bảy Viễn ra lệnh cho kháng chiến quân Bình Xuyên hễ biết chánh trị viên Hà Nội là cho đi mò tôm ngay . Tuy theo cộng sản, sau khi Bảy Viễn về thành, vì cùng anh em ăn thề với nhau, nên Mười Trí vẫn bị Nguyễn Bình nghi ngờ, đưa đi Miền Tây, hoạt động với danh xưng Sư thúc Hòa Hảo, để lôi kéo Năm Lửa (Hòa Hảo) về theo cộng sản . Trước khi đi, Mười Trí làm tiệc từ giả anh em Khu 7 . Nhân có phái đoàn Miền nam ra Bắc họp Đại Hội do Phạm Hùng hướng dẫn, Mười Trí viết thư nhờ Phạm Hùng cầm ra gởi Hồ Chí Minh để trần tình tấm lòng mình chỉ có theo chánh phủ trung ương Hà nội . Thư không niêm để phái đoàn có thể đọc . Phạm Hùng mở thư ra đọc:
«Bức tâm thơ kính gởi anh Hồ Chí Minh .
Thằng em của anh là Mười Trí gởi thơ này chúc anh khỏe mạnh . Thằng Bảy Viễn đã đầu Tây rồi, thằng em của anh rất lấy làm buồn vì không ngan cản được nó . Nhưng thằng em của anh hứa chắc với anh là thằng em của anh sẽ tiếp tục kháng chiến cho tới thắng lợi cuối cùng .
Dân giang hồ một khi đã theo cách mạng là nhứt định đi tới cùng, không bao giờ sanh nhị tâm .
Ký tên Huỳnh văn Trí
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 304 » (*) .
Phạm Hùng đọc qua, cảm thấy dội ngược vì chưa bao giờ có ai dám gọi Hồ Chí Minh bằng anh . Đưa cho tất cả thành viên phái đoàn lần lược đọc, ai cũng lắc đầu, im lặng . Tức ý muốn nói không nên đưa thơ cho Hồ Chí Minh .
Sau cùng, Hà Huy Giáp nhận xét nội dung thơ hoàn toàn đúng sự thật . Còn cách nói, tuy nói với « Bác », vẫn không có gì xúc phạm, thất lễ . Mười Trí kém « Bác » 13 tuổi, có gọi « Bác » bằng anh thì cũng bình thường thôi . Trái lại, lời thơ đúng là giọng dân giang hồ Nam bộ, như vậy sẽ có cơ hội để « Bác » hiểu dân giang hồ nam bộ đi theo kháng chiến . Nghe qua lý luận của Hà Huy Giáp, mọi người thấy an tâm nên đều bằng lòng nên đưa thơ của Mười Trí cho Hồ Chí Minh .
Khi gọi Hồ Chí Minh bằng anh, không biết có phải Mười Trí nghĩ Hồ Chí Minh cũng cùng gốc đi « hát » (**) như Mười Trí hay không . Bởi anh em Bình Xuyên đều gốc giang hồ, khi phong trào kháng chiến chống Tây phát động ảnh ưởng sâu xa đến lòng yêu nước ở họ, tất cả đều từ bỏ đời sống cũ, nhiệt tình tham gia kháng chiến . Trước đây giang hồ vì họ muốn sống hào hùng, ngoài vòng pháp luật .
Nên nhớ ngoài lớp trí thức tiểu tư sản ra, phần lớn những người đi theo Hồ Chí Minh làm cách mạng cộng sản đều gốc bụi đời, du thủ du thực, thất học, chẳng mấy ai ý thức được tình yêu nước, và cũng không thấy họ sẽ bị mất cái gì dưới chế độ cộng sản nên họ đi làm cộng sản chỉ để « có tất cả » nếu thành công, và không mất gì hết nếu thất bại ( Quốc tế ca) . Nhưng nếu nghĩ Hồ Chí Minh củng là dân giang hồ như Bảy Viễn thì đó là một sự lầm lẫn rất lớn . Bởi Hồ Chí Minh không thể giang hồ vì thiếu tinh thần mã thượng của dân Nam kỳ . Vả lại Hồ chí Minh là cộng sản, đệ tử chân truyền của Staline và Mao . Staline được Lénine tuyển dụng nhờ thành tích ăn cướp ngân hàng và giết người không gớm tay . Hơn nữa Hồ Chí Minh đi « hát » không phải trong phạm vi thôn xóm như Mười Trí, mà trên cả nước . Thành tích thổ phỉ của ông và cái đảng của ông là cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, sau 30/04/75 trong Nam, là đổi tiền, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới,…Ngày nay, đang đi « hát » trên ruộng đất của nhân dân . Đảng viên lớn giàu lớn, nhỏ giàu nhỏ. Chỉ có nhân dân lương thiện là tay trắng . Lời nói của Chu Sồi Sển, nhơn vật trong truyện « Xe lên, xe xuống » (Nguyễn Bình Phuoưng, Diễn đàn Thế kỷ, Huê kỳ), nói với Tướng cộng sản Hà nội Chu văn Tấn « Tụi tao vì nghèo đi làm thổ phỉ . Tụi bây cũng vì nghèo, đi làm cách mạng . Tụi mình giống nhau » rất đáng ghi nhớ để đừng mơ hồ với cộng sản .
Sau 1954, Mười Trí tập kết ra Bắc . Cũng như phần đông dân trong Nam tập kết, ông được cho đi học, cả học ở Liên xô và Đông Âu, nhưng họ đều được « hướng dẫn » theo học các ngành thiên về kỹ thuật như xây dựng, hàng hải, kế toán, …theo chế độ hữu nghị . Nên chẳng có mấy người sau 75 về Miền Nam làm cán bộ chánh trị hay an ninh .
Bảy Viễn về Sài gòn, với lực lượng võ trang Bính Xuyên, giử an ninh vùng Sài gòn Chợ lớn, đẩy lui việt cộng ra xa thành phố . Tây không giử lời hứa lập một « khu trái độn » để tiếp tục nhận thêm nhiều kháng chiến quân không theo Việt Minh cộng sản có thể yên tâm trở về mà không mang tiếng đầu Tây . Trái lại, Tây biến lực lượng bính xuyên hoàn toàn phụ thuộc họ . Và, vì sống xa hoa, chung quanh có nhiều kẻ xu nịnh, Bảy Viễn cũng bắt đầu thay đổi, để mất hẳn bản chất giang hồ lúc đầu . Sau 1954, Bảy Viễn được rước qua Tây, với cả gia đình . Ông và gia đình sống an lành ở một vùng ngoại ô phía Nam Paris, con cái học hành thành đạt . Có lẽ nhờ ông làm ăn cướp mà không thuộc thành phần đại gian đại ác .
Ghi chú: (*) Nguyên Hùng, Bảy Viễn, Thủ lãnh Bính Xuyên, xb Văn Học, Sài gòn, 1999, trg 288-289 và Pháp Luật Tp Hồ Chí Minh, Xuân 1998. Cũng nên để ý Nguyên Hùng là đảng viên cộng sản nên viết luôn luôn nhằm phục vụ cho tuyên truyền cộng sản và công kích những người ái quốc chống cộng sản .
(**) Đi hát là tiếng lóng của giới giang hồ có nghĩa là đi ăn cướp . (Nguyễn Văn Trần - © Đàn Chim Việt)

(iv) Hiệu Minh: Tại sao lại là Bob Kery?
Trên mạng đang ầm ỹ về ông Bob Kerrey, người từng chịu trách nhiệm một vụ thảm sát thời kỳ chiến tranh, làm chủ tịch hội đồng tín thác Đại học Fulbright tại Việt Nam (FUV). Ngày 25/5, FUV được trao quyết định thành lập dưới sự chứng kiến của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry. Đây là cơ sở giáo dục 100% vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động không vì lợi nhuận.Chẳng hiểu chức danh này to như thế nào ở Fullbright nhưng chắc không to bằng Đại sứ Mỹ tại Việt Nam. Thế mà mạng ảo ầm cả lên vì chuyện này. Phản đối, ủng hộ, im lặng…người Việt bị cuốn vào một cuộc tranh cãi không có hồi kết.
Vị đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên là ông Douglas Brian (Pete) Peterson nhiệm kỳ 1997-2001. Ông từng là "giặc lái" máy bay đánh phá miền Bắc và bị bắn rơi, bị bắt làm tù binh và ở “khách sạn Hilton – Hỏa Lò” tới 6 năm. Hầu hết người Việt của hai phía đều biết rõ chuyện này nhưng không ai lên tiếng Pete giết bao nhiêu người. Thời kỳ đại sứ của ông đã giúp cho embargo được cởi bỏ vài năm sau đó.
Chức danh của ông Bob Kerrey không thể so với John Kerry, ngoại trưởng Hoa Kỳ, một cựu binh chiến trường Việt Nam. Có người Việt Nam nào tự hỏi, anh lính John đã giết bao nhiêu người Việt khi cầm súng. “Anh” John ở cương vị ngoại trưởng và ThuongNghiSy, rồi trong ban đối ngoại thượng viện, đã làm hàng núi việc để có quan hệ Việt-Mỹ như hôm nay.
Chức danh “đi xin tiền” của Bob Kerrey không thể so với một cưu ứng viên TT Hoa Kỳ, ông John McCain, một phi công đánh phá Hà Nội và bị bắn rơi. Người ta lôi ông lên từ hồ Trúc Bạch, ở trọ “Hilton” 7 năm (1967-1973). Hiện nay tay ông bị tật là do bị thương, do tù tội, nhưng không vì thế mà ông không bỏ bao công sức để biến thù thành bạn. Có ai trong số người Việt tự hỏi, anh phi công John đã giết hại bao dân Việt trong những chuyến bay ném bom miền Bắc.
Chủ tịch hội đồng tín thác thực tế là vác cặp đi xin tiền tài trợ cho trường FUV. Với cương vị cựu thống đốc Nebraska, từng là ứng viên tham gia chạy đua vào Nhà Trắng năm 1992, Bob Kerrey biết nói khéo để người Mỹ rút ví. Có lý lịch tốt đẹp, đảng viên cộng sản 4 đời, tiếng Việt tập tọe, tiếng Anh không thạo, thì Quốc hội Mỹ khó mà gật đầu.
Bão mạng (lề phải) không ầm ỹ về Pete Peterson, John Kerry, John McCain, tại sao Bob Kerrey được chọn vào lúc này?. Nó xảy ra ngay sau chuyến thăm tốt đẹp của TT Obama tới Việt Nam được cả lãnh đạo và nhất là dân chúng đón hết sức nồng ấm trên phố.Thử tưởng tượng ngày Tập Cận Bình thăm Hà Nội, người Việt chiếu video lính Trung Quốc bắn 64 chiến sỹ Gạc Ma do chính phía Trung Quốc ghi lại và phát trên YouTube hay chiến tranh biên giới phía Bắc với sự tàn bạo của lính Trung Quốc.
Rất có thể có những người không mê chuyện người Việt ra đường đón Obama và thân Mỹ nên họ đã bắn đại bác vào quá khứ chiến tranh làm tới 5 triệu người chết, đất nước chia rẽ, một đòn hiểm độc đánh vào quan hệ Việt-Mỹ chỉ bằng mẩu tin “Bob Kerrey từng thảm sát người Việt”.
Dù ông từng thừa nhận cách đây 16 năm trên New York Times với sự hối hận trải dài mấy thập kỷ. Đây cũng là một bài học cay đắng của chiến tranh, biến người bình thường thành kẻ sát nhân.
Trong cuộc chiến này, cả hai phía chiến tuyến của hai miền đều mất mát to lớn, Mỹ cũng thiệt hại không nhỏ. Gợi lại chuyện này là gợi lại nỗi đau của cuộc chiến, dù 40 năm đã qua, nhưng nếu nhắc lại vẫn không ít hận thù như bóng ma hiện về.
Tin tức thế giới phẳng là thế. Một cú nhấn chuột trích một bài báo, đôi khi chỉ nhằm câu views để bán quảng cáo, có thể làm thay đổi hàng triệu có khi hàng tỷ người trên hành tinh. Nếu độc giả không tỉnh táo tự hỏi, tin này có lợi cho ai, mục đích là gì, và nhắm vào đâu, dễ bị cuốn vào cơn bão trên mạng ảo. Tự làm chủ cuộc đời mình trong thế giới đầy cạm bẫy mới xứng đáng là công dân toàn cầu.
Ủng hộ hay phản đối Bob Kerrey không nằm trong quyết định của bạn đọc hang Cua. Nhưng ý nghĩ dương tính có thể thay đổi được quá khứ đau thương và biến thành điều tốt đẹp cho tương lai con cháu để chúng được hưởng nền giáo dục văn minh, biết yêu hòa bình, lên án chiến tranh. Như tôi từng viết, thế hệ chính khách “chiến tranh Việt Nam” không còn nhiều thời gian trên trái đất này. Họ hiểu Việt Nam, hiểu Mỹ, hiểu ván bài khu vực hơn ai hết. Thời cơ không còn nhiều cho Việt Nam.
Làm như Pete Peterson, John Kerry, John McCain và như Bob Kerrey, để quan hệ quốc gia Mỹ Việt ngày càng gần gũi. Người Việt nhớ về các ông như những người bạn, trừ một số không hề thích xu hướng cựu thù thành đồng minh.
Đừng để chuẩn đúp hay chủ nghĩa lý lịch ngự trị cuộc đời mình. "Biết tha thứ nhưng không quên (forgive but not forget)", đó cũng là một cách lựa chọn khác cho đời thanh thản.(HM. 3-6-2016)

(v) Cao Thoại Châu: Điếu Văn viết cho những Con Cá
Cám ơn các ngươi chết giùm ta nhé
Con cháu chúng ta nhờ thế được an lành
Ôi cái chết “cháy nhà ra mặt chuột”
Bọn hám tiền bản chất lưu manh
     Đạo đức sống là sống vì người khác
     Chết cho người tránh thảm họa thiên tai
     Ai ngờ đó lại là phương châm của cá
     Không phải phương châm một số con người!
Trời sinh các ngươi làm hàng thực phẩm
Nuôi nước này vạn đại lớn lên
Rừng nước này tay người trồng vun xới
Cũng là nhờ con cá con tôm!
     Không chắc các ngươi cũng có linh hồn
     Nhưng ta biết các ngươi bị thảm sát
     Đang lan tỏa trong những người sống sót
     Biển nhà ta cũng chít khăn tang!
Cá và người hai loài hai giống
Hai môi trường đâu có giống nhau chi
Bài điếu văn này không lâm ly thống thiết
Bởi phẫn nộ bùng lên không biết tự bao giờ
     Đã vì người mà ra đi tức tưởi
     Nếu kiếp sau hóa kiếp làm người
     Thì hãy nhớ biển nước này in dấu
     Bờ đá này nét chạm khắc không phai!

(vi) Hồ Chí Bửu: Lặng im đáng sợ
Saigon bây giờ giống như thời chiến
Cũng hàng thép gai cũng xe vòi rồng
Cũng vẫn xuống đường trên tay biểu ngữ
Chống đối kẻ thù tàn sát biển xanh
     Saigon bây giờ có em có chị
     Có anh công nhân có bác xích lô
     Có cả rừng người yêu thương tổ quốc
     Kiêu hãnh xuống đường đòi biển sạch, xanh..
Saigon bây giờ lặng im đáng sợ
Saigon ngày xưa bốc lửa ngút trời
Saigon bây giờ trên vai trĩu nợ
Nợ của tiền nhân – nợ cả biển khơi…
.................................................................................................................
Kính,
NNS

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét